Cây Râu mèo (Kidney Tea plant = Cat’s Whiskers) tên khoa học: Orthosiphon spiralis (Lour.) Merr.; tên đồng nghĩa: O. aristatus (Bl.) Miq.; O. stamineus Benth. in Wall., thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae) là một cây cảnh đẹp, cây thuốc quý, được trồng khắp nơi ở nước ta.
Cỏ đa niên, cao 1 m; thân vuông; thường không lông, lá có lông hay không, hình tim, bìa có răng to. Phát hoa ở ngọn nhánh, dài đến 10 cm; hoa thành luân sinh 6 hoa; 5 răng; vành trắng hay tim tím; tiểu nhụy rất dài (bằng 2 - 3 lần vành, trông như râu mép con Mèo). Bế quả nhỏ, láng.
Theo y học cổ truyền, cây Râu mèo có tính mát, vị ngọt, lạt, hơi đắng; có tác dụng lợi tiểu, giải độc, tiêu viêm, trừ thấp.
Tây y từ lâu cũng đã nghiên cứu thành phần hóa học cho thấy Râu mèo chứa saponin mà chủ yếu là các orthosiphonin A, B, C, D, E; sinensetin, scuteralin, salvigenin, acid ursolic, acid rosmarinic, rất giàu kali, một polyalcol là mesoisonitol; các flavonoid chiếm 0,23% trong cây khô (9 flavonaglycon, 2 flavon glycosid, 1 coumarin, 1 acid cafeic và 7 dẫn xuất khác của acid cafeic); phytosterol (chất béo), một ít đường pentose, hexose, glucose, lalactose, và khoảng 0,65% tinh dầu… kali…
Có tác dụng lợi tiểu rất tốt (vì nhiều muối K), trị phù thũng, đau thận, bọng đái, tê thấp, thống phong ( gout); acid ursolic làm giảm đường huyết (dùng trị tiểu đường ở Đài Loan); cao huyết áp, hạ nhiệt, trị mụn trứng cá; thí nghiệm in vitro chống nhiều siêu vi khuẩn (Ch. Abst. 1984).
Về dược tính, các nhà nghiên cứu đã xác định Râu mèo không độc, có tác dụng lợi tiểu (nhờ cao toàn phần mà chủ yếu do kali, orthosiphonin, mesoisonitol…). Tác dụng lợi tiểu này làm tăng bài tiết chất cặn bã như urê, acid uric, Na+, Cl-… và đặc biệt không làm mất kali nhiều như các thuốc lợi tiểu tây y.
Về dược lý lâm sàng, theo các tác giả Ấn Độ, Râu mèo rất có ích để điều trị bệnh thận và phù thũng. Trên bệnh nhân, Râu mèo có tác dụng làm kiềm hóa máu, sự có mặt của hoạt chất orthosiphonin và muối kali trong dược liệu có tác dụng giữ cho acid uric và muối urat ở dạng hòa tan, do đó phòng ngừa được sự lắng đọng của chúng khỏi tạo thành sỏi thận. Ở Thái Lan, thí nghiệm trên những người tình nguyện khỏe mạnh, dịch chiết Râu mèo có tác dụng làm tăng sự bài tiết citrat và oxalat; oxalat với hàm lượng cao có thể tăng nguy cơ hình thành sỏi thận.
Ngoài ra, dịch chiết lá Râu mèo có tác dụng hạ đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường, nhưng tác dụng này không hằng định, cơ chế tác dụng có thể là do kích thích sự hình thành glycogen ở gan. Các chất sinensetin và tetramethylscutellarein có tác dụng ức chế tế bào u báng Ehrlich.
Trên động vật thí nghiệm, chất methylripariochromene A (MRC), ly trích từ lá Râu mèo cho thấy có tác dụng hạ huyết áp (đặc biệt là huyết áp tâm thu) do tác dụng giãn mạch, giảm hậu tải của tim và lợi tiểu.
Ba loại benzochomen và 4 loại diterpen nhóm isopimarane ly trích từ lá Râu mèo có tác dụng giảm co thắt cơ trơn gây ra bởi nhiều tác nhân kích thích.
Chất ly trích bằng metanol từ lá Râu mèo cho thấy có tác dụng bảo vệ gan bị tổn hại bởi việc dùng quá liều paracetamol.
Các flavonoid trong Râu mèo có tác dụng chống oxy hóa và bẫy gốc tự do là các chất gây tổn hại cho tế bào và hệ miễn dịch của cơ thể, do đó Râu mèo còn có tác dụng tăng sức đề kháng của cơ thể.
Trong hai cuộc thí nghiệm để trị mụn: một ở Pháp trên người châu Âu và một ở Thái Lan trên người châu Á, cho thấy: một loại mỹ phẩm dạng nhũ tương có chứa 2% trích tinh lá Râu mèo làm giảm chất bã nhờn và kích thước mụn trên những người da nhờn do tác dụng làm giảm isozym typ 1 của 5-alpha reductase cũng như giảm sản sinh chất squalen, một cấu tử chính tạo nên chất bã nhờn là nguyên nhân phát sinh mụn. Tác dụng của mỹ phẩm có trích tinh Râu mèo tốt hơn khi so sánh với chế phẩm trị mụn thông thường chứa 1% kẽm gluconat.
Râu mèo được sử dụng độc vị hoặc phối hợp với các thuốc khác trong các chứng bệnh thống phong, thấp khớp, thấp ngoài khớp, phù nề, viêm thận, sỏi niệu, tiểu ít, viêm gan, hoàng đản, sốt nóng, cảm cúm, thủy đậu (trái rạ), sởi (ban đỏ), đái tháo đường, cao huyết áp…
Liều lượng và cách dùng: thường dùng cành lá mang hoa lúc chớm nở, tươi từ 20 - 60 g; khô từ 12 - 30 g/ngày, dưới dạng thuốc sắc, pha như trà hoặc chế biến thành cao. Các thuốc tây từ cây Râu mèo như orthosiphon, betasiphon… dưới dạng cao lỏng trong ampoule chỉ cần pha loãng vào nước chín để uống. Viên sỏi thận Domesco® gồm cao hột Chuối chát, cao Rau om, cao Râu mèo, cao hột Lười ươi: trị sỏi đường tiết niệu, viêm thận, bàng quang.
Vài toa thuốc phối hợp có Râu mèo:
Viêm thận mãn, viêm bàng quang, thấp khớp, thấp ngoài khớp, viêm đường mật:
- Cây Râu mèo 40 g
- Tỳ giải 30 g
- Rễ cây Ý dĩ 30 g
Đổ ngập nước sắc uống trong ngày; dùng 3 tuần nghỉ 1 tuần.
Tiểu máu, tiểu buốt, tiểu ra sỏi:
- Cây Râu mèo 40 g
- Thài lài trắng (Rau trai) 30 g
Thêm 3/4 lít nước sắc còn nửa lít rồi thêm 6 g Hoạt thạch (bột talc) uống trong ngày, dùng trong một tuần lễ.
Thận dương suy kém kèm theo hiện tượng bụng dưới đau tức:
- Râu mèo 16 g
- Cây Mã đề 20 g
- Rễ tranh 12 g
- Tô mộc 12 g
- Rễ Cỏ xước 16 g
- Rễ cây Ruột gà 12 g
Dược liệu khô, sắc với nửa lít nước 150 - 200 ml, chia làm 2 lần uống trước bữa ăn.
Viêm gan siêu vi, bệnh hoàng đản, da dẻ xanh xao vàng bủng, táo bón kinh niên:
- Râu mèo 30 g
- Cỏ Lưỡi rắn 30 g
- Cây Chó dẻ 30 g
- A ti sô 20 g
- Cỏ Mực 30 g
Dược liệu khô thêm 1 lít nước sắc còn 3/4 lít để uống trong ngày. Dùng 3 tuần lễ, nghỉ 1 tuần rồi uống tiếp trong vài ba tháng.
Tiểu đường:
- Râu mèo tươi 50 g
- Khổ qua (dây, lá, trái non, tươi) 50 g
- Cây Mắc cỡ khô 6 g
Dược liệu tươi rửa sạch, bằm nhỏ, Mắc cỡ sao vàng, thêm 1 lít nước sắc còn 3/4 để uống trong ngày, dùng liên tục 3 tháng đi thử máu lại.
Thận trọng:
Mặc dù với liều lượng thông thường, Râu mèo không thấy có tác dụng gây độc cấp tính.
Tuy nhiên, do tác động trên sự cân bằng ion K+, Na+… và các phân hóa tố, vì vậy, không nên dùng thường xuyên và lâu dài Râu mèo với liều cao.
Cần thận trọng khi dùng cho phụ nữ có thai, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét