Bạch tật lê
Bạch tật lê thường dùng như một vị thuốc về mắt, y học cổ truyền Ân Độ lại dùng nó như một vi thuốc hỗ trợ về tình dục, cường dương, điều trị những người bị suy giảm tình dục.
Mô tả vị thuốc
Bạch tật lê là quả của cây Tật lê – một vị thuốc quen thuộc của đông y, thường được dùng để chữa các chứng bệnh về mắt như đau mắt đỏ, chảy nước mắt. Cây Tật lê có tên khoa học là Tribulus Terrestris, thuộc họ Tật lê Zygophyllacea, nay gọi theo danh pháp mới là Gai ma vương, thuộc họ Gai chống, tuy nhiên theo thói quen người ta vẫn dùng cái tên cũ là Tật lê.Là cây thảo mọc bò lan, có thể thành một thảm rộng đến 1 m. Cây có lá kép lông chim gồm 5- 7 đôi lá chét, lá dài khoảng 1 cm, phủ nhiều lông trắng ở mặt dưới, hoa ra vào khoảng cuối xuân đầu hạ, có năm cánh màu vàng chanh.
Quả Tật lê rất đặc biệt, thường có 5 cạnh, có gai dài, nhọn rất cứng, có thể làm tổn thương nếu đi chân trần dẫm phải, hoặc thậm chi là đâm thủng vỏ xe đạp- vì thế nên cây còn có tên là Gai ma vương hoặc châu Âu gọi là quả nho có gai nhọn (tạm dịch từ chữ Puncture vine).
Cây mọc ở nhiều nơi trên thế giới, ở Việt Nam thường mọc ở các vùng đất ven biển từ Quảng Bình trở vào, rất nhiều ở Bình Thuận.
Tác dụng trên sức khỏe tình dục
Khác với y học cổ truyền Trung quốc và Việt nam, nơi mà Bạch tật lê thường dùng như một vị thuốc về mắt, y học cổ truyền Ân độ lại dùng nó như một vi thuốc hỗ trợ về tình dục, cường dương, điều trị những người bị suy giảm tình dục.
Từ những năm 70 của thế kỷ 20 đã có những tin đồn về thành tích thể thao của các vận động viên khối Đông Âu có được là do dùng một số thuốc bí mật đi từ thảo dược; đặc biệt là ở những môn thể thao đòi hỏi sức mạnh như cử tạ.
Sự bí ẩn này chỉ sáng tỏ vào những năm 1990 khi một số vận động viên của Đông Âu tiết lộ rằng họ được cho sử dụng một số chế phẩm từ cây Tribulus Terrestris (cây Tật lê). Một số báo cáo cho thấy Tribulus Terrestris làm tăng lượng hóc môn sinh dục nam testosteron và tăng số lượng tinh trùng.
Testosteron được tiết ra từ tinh hoàn và tuyến thượng thận. Testosteron kích thích phát triển cơ quan sinh dục, tăng tổng hợp chất đạm làm tăng cơ bắp, tăng ham muốn tình dục; ngoài ra còn tăng hoạt động tạo hồng cầu của tủy xương và tăng cường khả năng miễn dịch.
Trong cơ thể, điều hòa tổng hợp các hóc môn sinh dục rất phức tạp. Đầu tiên vùng dưới đồi của bộ não tiết ra hóc môn GnRH, chất này sẽ kích thích thùy trước tuyến yên tiết ra 2 hóc môn là LH và FSH.
LH kích thích tế bào kẽ ở tinh hoàn tiết ra testosteron, còn FSH kích thích ống tinh sinh ra tinh trùng. Khi lượng testosteron và tinh trùng sinh ra tăng cao, nó lại tác động ngược lại vùng dưới đồi làm giảm tiết ra GnRH, khiến cho quá trình sinh hóc môn sinh dục lại chậm lại.
Quá trình này diễn ra nhịp nhàng khiến lượng hócmôn sinh dục trong cơ thể được ổn định, điều hòa.
Vì trong thành phần của cây Tribulus Terrestris không có chất nào tương tự như testosteron, nên người ta dự đoán khả năng tăng cường chức năng tình dục này là do tác dụng lên hệ dưới đồi – tuyến yên dẫn đến tăng tiết testosteron một cách tự nhiên.
Có lẽ chính điều này đã giúp các vận động viên qua được các cuộc kiểm tra doping tại các cuộc thi đấu thể thao (testosteron bị xếp loại là một trong những chất doping). Một nghiên cứu trên người cho thấy với liều 750 mg tribulus/ngày sẽ làm tăng testosteron ở nam giới từ 60 ng/dl lên 84 ng/dl, tăng 41%.
Một nghiên cứu khác trên 200 nam giới bị suy giảm tình dục do lượng testosteron thấp khi dùng chế phẩm này đã tăng lượng hóc môn sinh dục cũng như tăng số lượng và khả năng hoạt động của tinh trùng.
Nghiên cứu khác trên thỏ và chuột cũng cho thấy tăng lượng hóc môn sinh dục cũng như tăng số lần giao hợp của chúng. Trong dữ liệu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), hiện có 13 sáng chế có liên quan đến tribulus terrestris, trong đó có 6 sáng chế liên quan đến tính chất tăng cường sức khỏe tình dục của cây này.
Từ những nghiên cứu trên, các hãng dược phẩm đã nhanh nhạy tung ra thị trường rất nhiều sản phẩm thực phẩm chức năng có chứa tribulus, dùng để điều trị các chứng suy giảm chức năng sinh dục, suy nhược cơ thể, cũng như hỗ trợ tập luyện thể thao. Sản phẩm Tribestan của Bungari xuât khẩu sang Mỹ với doanh số hàng năm là 10 triệu đô la.
Các sản phẩm khác với tên gọi Tribulus hiện được bán rất nhiều trên thị trường. Tại Việt nam, cty Dược phẩm TW 25 có sản xuất chế phẩm Tribelus từ cây Tribulus mọc ở Bình Thuận.
VnExpress ngày 20/3/2009 dẫn lại nguồn tin từ AFP cho biết các nhà khoa học Đức đang nghiên cứu phát minh ra một chế phẩm từ một số loại thảo mộc, trong đó có tribulus terrestris, giúp tăng khả năng tình dục, tăng khả năng cương cứng còn hơn cả Viagra.
“Trong thử nghiệm, 50 nam giới đã có sex tuyệt vời hơn nhiều sau đó, thấy hứng thú hơn trên giường và nói chung cảm giác về bản thân tốt hơn hẳn”, tờ Sueddeutsche Zeitung dẫn lời Olaf Schroeder, tại Bệnh viện Charite ở Berlin, “Dục năng của họ thậm chí còn cao hơn nhóm đối chứng sử dụng Viagra”, ông cho biết.
Một số thận trọng
Trước hết cần chú ý về độc tính của cây tribulus terrestris. Tuy chưa có nhiều nghiên cứu, nhưng đã có một số lưu ý như sau: gây rối loạn vận động, yếu liệt hai chi sau trên cừu, tác dụng gây đau dạ dày, tiêu chảy ở người.
Có báo cáo cho thấy xuất hiện chứng vú to ở nam giới dùng tribulus. Liều dùng thông thường được khuyến cáo là từ 250 mg – 1500 mg chế phẩm cao tinh chế /ngày, hoặc 10 -12 g cây khô.
Sau nữa cần chú ý đến sự thương mại hóa, thổi phồng quá đáng các tác dụng khi chưa có sự kiểm chứng khoa học chắc chắn.
Một nghiên cứu vào năm 2000 trên 15 người tập luyện có dùng tribulus và so sánh với giả dược (placebo), cho thấy ở người dùng tribulus không thấy có sự cải thiện nào trong lượng cơ thể, tỷ lệ mỡ, tổng khối lượng cơ bắp. Nghiên cứu khác vào năm 2005 trên nam thanh niên dùng tribulus terrestris, không thấy tăng lượng hóc môn LH cũng như testosteron.
Dù cho với tất cả sự thận trọng, thì đây cũng là một cây thuốc quý, cần nghiên cứu sâu hơn trên tác dụng phục hồi sức khỏe tình dục. Còn với riêng người viết bài này, thì uống bình rượu ngâm cây Tật lê dù sao cũng thấy tin tưởng hơn nhiều so với rượu chuối hột, bổ củi, bìm bịp… đang bán đầy trên phố.Sầu riêng
Chữa khỏi liệt dương bằng loại quả “ăn là nghiện” của Việt Nam
Loại quả này có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ dưỡng tiêu thực, ôn phế, làm khỏi khát, cầm máu, có tác dụng rất tốt khi dùng làm thuốc chữa liệt dương cho cánh mày râu.
Sầu riêng… tráng dương
Vì sầu riêng chứa nhiều vitamin B, C, E cũng như có hàm lượng sắt cao vì vậy rất tốt cho người ốm yếu. Sầu riêng cũng được coi là thực phẩm là giảm cholesterol trong máu, rất tốt cho người béo phì hoặc huyết áp cao. Ngoài ra, y học phương Đông cũng nêu ra một số bài thuốc từ sầu riêng giúp cơ thể đàn ông tráng kiện, tăng cường khả năng “phòng the”.
Chữa liệt dương: Sầu riêng (múi quả) 200g, ba kích 100g, hạt mướp đắng 50g. Tất cả sấy khô tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh với rượu ngon, trước khi ăn.
Bổ thận tráng dương: Bầu dục lợn một bộ, sầu riêng (sắp chín), 200 gr, gia vị vừa đủ. Bầu dục thái nhỏ ướp gia vị. Sầu riêng thái miếng nhỏ xào với bầu dục. Ăn nóng ngày một lần. Cần ăn 5 lần, dùng cho người bị chứng lãnh cảm, suy yếu tình dục.
Chữa di tinh, liệt dương: Sầu riêng 50 gr, đường 20 gr (có thể thay đường bằng mật ong) đánh nhừ như kem, thêm khoảng 100 ml nước sôi để nguội hòa đều để uống, ngày hai lần trong 10 ngày.
Bổ thận, cứng gân cốt, kích thích tiêu hóa: Vỏ quả sầu riêng 15 gr, đậu đen sao 10 gr, tang ký sinh 12 gr, hà thủ ô chế 15 gr, đỗ trọng 15 gr, cốt toái bổ 15 gr, vỏ quýt 8 gr. Sắc uống.
Thay hoàng kỳ: Vỏ quả sầu riêng thay tác dụng của hoàng kỳ trong các bài thuốc nam trợ dương.
Ngoài ra những bệnh liên quan đến tiêu hóa, sốt rét, gan, vàng da đều có thể bằng quả sầu riêng.Những lưu ý với quả sầu riêng
Ăn sầu riêng ngon và bổ, tuy nhiên ta không nên ăn quá nhiều (trên 150g cơm quả một ngày) vì sẽ bị “nóng”, gây bứt rứt trong người, dễ sinh mụn nhọt. Những người có tính nhiệt cần lưu ý điều này.
Đồng thời, nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng không nên ăn sầu riêng cùng với thức uống như rượu, bia, cà phê vì có thể sẽ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và có hơi thở xấu. Sầu riêng có hàm lượng đường cao nên với những người có hàm lượng đường trong máu cao hoặc mắc bệnh tiểu đường không nên ăn. Những người tì vị kém ăn nhiều sầu riêng sẽ bị đầy bụng khó tiêu.
Một nghiên cứu của trường đại học Tsukuba (Nhật Bản) khuyến trong quả sầu riêng có chứa một lượng lớn dầu có sulfur gây ức chế hoạt động của men aldehyd dehydrogenase, dẫn đến 70% chất oxy hóa trong tế bào không được chuyển hóa vì vậy ăn nhiều sẽ gây độc cho cơ thể
Một điều khá lí thú là trong khi y học hiện đại đã hiểu rõ quá trình lão hóa ở cơ thể người thì lại chưa tìm ra được thuốc chữa đặc hiệu làm chậm quá trình lão hóa thì y học cổ truyền thuần Việt lại đã có thuốc làm chậm quá trình lão hóa, mặc dù chưa có cái gọi là “lí luận” về sự lão hóa theo hệ quy chiếu của Tây y. Xã hội Việt cổ đại đã từng có rất nhiều người sống lâu tới hơn 200 tuổi. Do không đủ thực chứng để khảng định nên đều bị nhận xét: “đó là những nhân vật huyền thoại”. Bài thuốc Trường Xuân cổ truyền tôi giới thiệu với các bạn dưới đây thì trái lại đã được thực tế kiểm nghiệm vì nó được chính những người sống trên 100 tuổi truyền dạy cho tôi. Bài thuốc chỉ có 4 vị và rất dễ kiếm tìm:
Búp non của cành dâu tằm ăn
Hạt Vừng Đen (Mè Đen)
Mằn đăng ón (phát âm theo tiếng Thổ Cao Bằng), người Hoa gọi là Hà Thủ Ô.
Đậu Đen
Kì công chế biến 4 vị thuốc bình dân này tạo được sự kì diệu của Bài thuốc Trường Xuân.
Kỹ thuật chế biến: Số lượng các vị bằng nhau, nhiều ít tùy theo nhu cầu.
Chế biến
+ Hợp chất thứ nhất bao gồm Búp Dâu tằm và Mè Đen: Mè Đen tán nhỏ trộn lẫn với Búp Dâu đã vò nát ủ yếm khí với men làm rượu nếp 3 ngày đêm, sấy khô ở nhiệt độ không quá 50oC, tán nhỏ thành bột mịn.
+ Hợp chất thứ hai bao gồm củ Mằn đăng ón còn tươi, ngâm nước đái Khỉ 3 ngày 3 đêm. Vị thuốc này chế biến rất cầu kì. Cụ già người Thổ Cao bằng truyền dạy cho tôi là phải lấy củ Mằn đăng ón ở trên núi nơi Khỉ ở, vì nước đái Khỉ tưới cho củ này mới hiệu nghiệm. Đây là việc không thể làm được. Tôi nghĩ, lấy nước đái Khỉ ngâm tẩm là được, nên khi còn ở Sài Gòn tôi mua củ Hà Thủ Ô đỏ ở Chợ Lớn và đến Sở thú nhờ giúp đỡ. Khi nghe tôi muốn lấy nước đái Khỉ để làm thuốc mọi người cười ồ, nhưng rồi tìm được người chuyên quét dọn chuồng Khỉ nhờ giúp đỡ. Bác công nhân này chỉ tủm cười và nói: “đi mua 2 lít bia hơi và nửa cân đường về đây”! Tôi dạ thật to và đi mua liền, nghĩ bụng chắc là bác muốn bồi dưỡng đây. Mua về hóa ra là để cho Khỉ uống. Bác tìm được chiếc lồng sắt, bắt 4 chú khỉ đực nhốt lại rồi cheo lên cao 1 mét. Bác hòa đường vào bia đưa cho Khỉ, chúng uống rất khoái chí. Khoảng 30 phút sau, 4 chú Khỉ thi nhau tè, tôi sung sướng lấy chậu hứng lấy. Thế là được nước đái Khỉ tinh khiết giữa đô thành Sài Gòn.
Củ Hà Thủ Ô đỏ ngâm nước đái Khỉ 3 ngày 3 đêm thì mềm ra như của khoai lang, thái mỏng rồi cho vào chõ đồ với hạt Đậu Đen: giải một lớp mỏng Đậu Đen rồi đặt các lát Hà Thủ Ô vào rồi lại giải lớp đậu. Đồ trong 3 giời lấy ra, bỏ đỗ đi, hong trong bong dâm cho kho khô. Đồ như thế 9 lần để được miếng Hà Thủ Ô rắn đanh như mảnh sành. Sau đó nghiền các mảnh Hà Thủ Ô thật mịn rồi chộn thật đều với hợp chất Búp Dâu – bột Mè Đen. Hỗn hợp này lại được chộn với một loại men gia truyền ủ yếm khí 3 ngày 3 đêm, lấy ra ngào với mật ong rừng làm thành viên to như hạt ngô, sấy khô cho vào lọ dùng dần. Mỗi lầm dùng khoảng 15 gam, uống với nước gừng nóng trước khi đi ngủ.
Uống như thế liên tục trong 6 tháng thì toàn bộ độc tố tích lũy lâu nay trong cơ thể bị tống ra ngoài. Tùy theo thể trạng mỗi người mà độc tố chọn đường thoát ra: thong thường là qua đường tiêu hóa, bị ỉa chảy vài ngày, cũng có thể phát ban nhẹ vài hôm rồi tự lặn. Sau khi thoát hết chất độc, cơ thể hồi phúc, Da bắt đầu hồi sinh nếu dùng thuốc liên tục mỗi ngày một liều thì làn da mỡ màng, dung nhan nhuận sắc, giữa được vẻ ngoài Trường Xuân
Bài thuốc Trường Xuân (phần thứ hai)
Phương pháp sử dụng Thuốc trường Xuân
Sự kì diệu của bài thuốc Trường Xuân có cơ sở nền tảng là tác dụng Dược lí của các vị thuốc tham gia vào quá trình chuyển hóa các chất trong cơ thể người sử dụng. Để người dùng yên tâm về độ an toàn của thuốc xin nói sơ qua về kết quả phân tích Hóa – Dược từng vị thuốc này:
1. Lá búp dâu tằm:
Cây Dâu tằm có tên khoa học là Morus alba. Toàn bộ cây Dâu tằm đã được người Việt dùng làm thuốc chữa bệnh từ nhiều đời nay. Ở bài thuốc Trường Xuân chỉ dùng lá Dâu non (búp Dâu). Lá Dâu non tích chứa nhiều chất hóa học quý hiếm, như: Cholin, Adenin, Trigonellin, pentozan, Canxi malat, Canxi cacbonat. Đặc biệt hơn nữa trong lá dâu non có 2 chất Sinh-hóa mang thuộc tính nội tiết chỉ thấy có ở cơ thể động vật côn trùng, đó là chất: (1) Ecdysteron và (2) Inokosteron. Đây là những chất nội tiết giúp cho sự đổi lốt của côn trùng. Nhờ có những chất này mà nhộng trưởng thành có thể “hóa vũ” (biết bay). Khi chế biến lá Dâu làm thuốc phải hết sức cẩn trọng để không bị tiêu biến mất các chất Sinh – Hóa này. Nguyên tắc phải giữ nhiệt không được vượt quá ngưỡng 500C trong quá trình làm khô thuốc phải được thực hiện nghiêm cẩn. Tuyết đối không được phơi thuốc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời. Hai chất Sinh-Hóa: Ecdysteron và Inokosteron có trong lá dâu như nói ở trên còn nhiều bí ẩn chưa được phân tích sâu sắc. Kinh nghiệm thực tế chữa bệnh bằng lá Dâu Tằm trong dân gian nhiều đời nay cho thấy, vị thuốc này có thể chữa khỏi các chứng bệnh, như: hạ nhiệt trong cơn sốt cao ở 400C ở trẻ nhỏ; làm sáng mắt cho người cao tuổi; nhức đầu mắt đỏ; chữa bệnh nước mắt chảy nhiều; hoa mắt ù tai; chấm dứt hiện tượng nôn ra máu; v.v… Tôi cho rằng hai chất Sinh – Hóa này đóng góp quan trọng làm nên sự kì diệu của Lá Dâu non.2. Hạt Vừng (mè) Đen.
Danh pháp khoa học: Sesa Mun indi cum L. Kết quả phân tích các chất hóa học có trong hạt Vừng Đen cho thấy: 55% dầu; 20% nước; 22% Protein; 5% tro, trong đó có 1,7mg Đồng; 8% những chất không chứa Ni tơ: pentozan, Lexitn, Phytin, Cholin.
Dầu Vừng là dầu thực vật cao cấp chứa 16% axit đặc, trong đó có:7,7% a xit Panmitic, 4,6% axit Stearic,0,4% axit Archidic. Dầu Vừng còn chứa 80% axit lỏng, trong đó có: 48% axit Oleic, 30% axit Linolic, 0,4% axit Lignoxeric. Đáng quan tâm hơn là trong dầu Vừng có 1,7% chất không xa phòng hóa dược, còn có tới 1% Lexitin. Người ta còn thấy trong dầu Vừng có 1% Sensamin (C20H18O6 ); 0,1% chất Sesamol là một Phennol (C7H6O3).
Từ ngàn đời nay, người Việt bình dân gắn bó với hạt Vừng trong đời sống cơ hàn của mình. “Cơn nắm muối Vừng” là thực phẩm vật bất li thân cho những chuyến đi xa tìm kế sinh nhai. Các thầy lang ta đã coi Vừng như một thần dược chữa trị nhiều chứng bệnh ở: Gan, Phổi, Thận và đau Dạ dày. Vừng là vị thuốc chẳng những bồi bổ ngũ tạng mà còn có tác dụng làm đầy Tủy Não, bền Gân cứng Xương, sáng Tai, Mắt. Tuệ Tĩnh cho rằng:, Vừng giúp người cơ nhỡ quên đói, ăn Vừng thường xuyên giúp sống lâu…3. Hà Thủ Ô đỏ
Nhiều người đã nhìn thấy “củ” Hà Thủ Ô Đỏ nhưng chưa nhìn thất cây của nó. Bức ảnh trên giới thiệu với bạn về hình thể cây Mằn năng ón Đỏ. Người Hoa gọi tên phần rễ phình của cây này là Hà Thủ Ô, dựa theo truyền thuyết dân gian Trung Hoa, nói rằng: có người đàn ông tên là Điền Nhi sức vóc yếu ớt năm 58 tuổi vẫn chưa có con, ham mê tu luyện đạo thuật. Ông ta thường theo các thầy đạo pháp lên núi tu luyện. Một đêm do uống nhiều rượu Điền Nhi bị say nằm liệt ở một triền núi. Khi màn đêm buông xuống, ông ta nhìn thấy hai cây dây leo ở cách xa nhau một sải tay lại bò đến quấn quýt vào nhau, lát sau lại tự bò về chỗ cũ. Người say qua đêm đã tỉnh rượu liền đào rễ của những cây này mang về kể chuyện cho dân làng biết.
Có một người già ở phương xa tới nghe chuyện liền nói rằng: Anh lớn tuổi mà chưa có con, gặp được sự lạ này chắc đây là vị thuốc Tiên, nên sắc ra uống. Điền Nhi nghe theo liền tán rễ cây thành bột rồi hòa rượu uống. Uống được 7 ngày đã thấy hứng tình, uống liên tiếp hơn một tháng sau thấy người khỏe mạnh. Sau một năm uống rễ cây lạ này mọi bệnh tật đều khỏi, tóc bạc trắng đã đen trở lại, sinh được con giai, ông ta liền đổi tên thành Năng Tự, sống lâu thọ đến 160 tuổi (?!). Năng Tự đặt tên con trai là Điền Tú, Điền Tú sinh ra Hà Thủ Ô và cũng được uống bột rễ cây này thọ tới 130 tuổi. Bạn của Hà Thủ Ô là Lý An Kì lấy được vị thuốc này mang về uống cũng sống lâu và là người thuật lại chuyện, rồi đặt tên vị thuốc là Hà Thủ Ô.
Huyền thoại này thực chất chỉ là cách quảng cáo để bán được nhiều thuốc của người Hoa. Tôi đưa vị thuốc này vào Bài thuốc Trường Xuân không phải do bị mê hoặc về huyền thoại này mà là căn cứ vào các thành phần Sinh – Hóa tích chứa trong rễ Mằn năng ón. Kết quả phân tích Hóa – Dược của các nhà khoa học Nhật Bản công bố năm 1923 cho thấy trong rễ Hà Thủ Ô có: 45,2% tinh bột; 3,1% chất béo; 1,1% Protein; 26,4% các chất tan trong nước; 4,5% các chất vô cơ; 1,7% các chất thuộc về Anthraglucozit, như: Chrysophola, Emodin, Therin. Đặc biệt hơn nữa trong Mằn năng ón có Lexitin.
Lexitin là một Photphatit được tạo thành từ sự kết hợp giữa axit Glyxerophotphorit với một phân tử Cholin và hai axit béo. Lexitin là thành phần quan trọng chủ chốt của Hệ thần kinh, nó là nguồn photpho dễ hấp thu và giúp cho sự chuyển hóa chung của cơ thể thông suốt. Trong thí nghiệm tiến hành trên cơ thể Thỏ, người ta ghi nhận: Lexitin làm tăng huyết dịch và trợ tim rất đặc hiệu. Để giúp cơ thể chống suy dinh dưỡng và suy nhược thần kinh người ta luôn cầu cứu đến Lexitin.
Các chất có thành phần Anthraglucozit có trong Mằn năng ón còn làm tăng sự co bóp của thành ruột trong quá trình tiêu hóa tăng dinh dưỡng cho cơ thể suy kiệt.
Đậu Đen là loại thực phẩm được toàn dân nước Việt ưa dùng để nấu chè, nấu xôi. Từ rất lâu đời, hạt Đậu Đen được dùng để chữa bệnh bằng cách làm vật đệm cho quá trình chế tạo thuốc. Đậu Đen được tham gia trong bài thuốc Trường Xuân đóng vai trò phù trợ để chế tạo Mằn năng ón chủ yếu là lấy “hơi” của hạt đậu nhiễm vào Mằn năng ón. Hơi từ hạt Đậu Đen thoát ra là kết quả chuyển hóa của hạt đậu trong quá trình hấp thu nhiệt. Chúng ta tìm hiểu các chất Sinh – Hóa chứa trong hạt Đậu Đen để nhận ra chất lượng hơi trong hạt đậu đã góp phần vào bài thuốc Trường Sinh.
Trong hạt Đậu Đen có 24,2 Protein tổng số, bao gồm: các axit amin thiết yếu cho cơ thể sống rất cao: 0.97g Lisin, 0,31g Tryptophan, 0,31g Metionin, 1,16g phenylalin,1,26g Lenxin, 1,09 Alanin, 1,11g Izoleuxin, 1,72g Acginin, 0,75g Histidin, 0,97 Valin …
Ngoài hàm lượng Protein khá cao, Đậu Đen còn có: 1,7% chất béo. 53,3 Gluxit, 2,8% chất tro chứa 56mg% muối Can xi, 354mg% P, 6,1% Sắt, 0,06mg% Caroten. Đậu Đen có: 1,8mg% Vitamin PP, 3mg% VitaminC, 0,21mg% Vitamin B2, 0,51mg% Vitamin B1. Đặc biệt hơn nữa trong vỏ Đậu Đen có chứa chất màu Anthoxyanozit (Năm 1960, ông Đỗ Tất Lợi công bố tự ông đã tìm ra chất này). Đây là chất Sinh – Hóa rất phức tạp còn chứ nhiều bí ẩn về tác dụng sinh lí có tác dụng làm vững bền thành ngoài tế bào.
Tây y không dùng Đậu Đen để chữa bệnh. Trung y ca ngợi tác dụng chữ bệnh của Đậu Đen rất cao, người hoa cho rằng Đậu Đen có tác dụng bổ Thận, làm cho tóc bạc sớm đen trở lại. Kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian nước Việt, uống nước Đậu Đen giải được những cơn khát do ra nhiều mồ hôi. Người bị bệnh nước đái đục, uống nước Đậu Đen làm cho nước tiểu hết đục.
Chúng ta đã khảo sát tính chất Sinh – Hóa của 4 vị thuốc chính cấu tạo nên Bài thuốc Trường Xuân. Điều ghi nhận trước hết là 4 vị thuốc này không có độc tố và đều có bản chất là thức ăn thông thường. Điều kì diệu diễn ra khi cả 4 vị thuốc này hòa hợp với nhau nhờ có các loại Enzym trong các loại men ủ thuốc kích thích các biệt chất có trong từng vị tham gia tạo thành hợp chất mới để có Bài thuốc Trường Xuân.
Bài thuốc này nếu dùng riêng có tác dụng làm chậm quá trình lão hóa cho toàn cơ thể. Nếu người dùng đang bị mắc phải các bệnh mạn tính nên theo chỉ dẫn sau:
Người đang bị cao huyết áp khi uống thuốc này bỏ nước Gừng mà uống với nước sắc của Cây Cỏ Xước hoặc nước Ngưu tất.
Người bị bệnh vẩy nến khi uống thuốc này bỏ nước Gừng và uống với nước sắc của nõn lá Tre
Người bị bệnh Chàm khi uống bỏ nước Gừng uống với nước lá khế
Phụ nữ kinh nguyệt không đều hoặc bị bệnh Xích Bạch đới dùng bài thuốc Trường Xuân rất hợp, nhưng khi uống bỏ Gừng mà uống với nước sắc của củ Gấu.
Người già đã có dấu hiệu lú lẫn uống bài thuốc Trường Xuân giúp minh mẫn trở lại, bỏ nước Gừng thay vào bằng nước sắc Viễn chí.
Người bị liệt dương (Nam giới) hoặc lãnh tình (Nữ giới) uống Bài thuốc Trường Xuân sau 3 tháng sẽ có hiệu lực: “Trên bảo dưới sẽ nghe lời nghiêm chỉnh”.
Những người trẻ tuổi mắc bệnh “chưa đến chợ đã mất tiền” (hoạt tinh), kiên trì uống Trường Xuân sẽ lành bệnh.
Người bị các loại bệnh ung thư đang điều trị bằng liệu pháp “Xạ trị” hoặc uống thuốc Tây bị rụng tóc khô da rát mồm, uống Trường Xuân sẽ khắc phục được các phản ứng phụ đó.
Người bị hôi nách; trứng cá mọc tùm lum; hơi thở có mùi hôi thối (hở van thực quản) uống Trường Xuân kiên trì sau 6 tháng hết bệnh.
Bài thuốc Trường Xuân còn nhiều tác dụng với nhiều loại bệnh mạn tính nữa nhưng nói nhiều quá sẽ bị coi là “ba hoa”. Xin mời các bạn tự chế lấy thuốc dùng thử coi.
Chúc các bạn thành công!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét