Cây đằng xay thường gọi là cây cối xay, hay còn gọi nhĩ hương thảo,
giăng xay, quýnh ma, kim hoa thảo, ma mảnh thảo, ma bản thảo giàng xay,
co tó ép (Thái), phao tôn (Tày)..., tên khoa học Abutilon indicum L. hay
Sida indica L. thuộc họ Cẩm quỳ (Malvaceae). Là loại cây thấy mọc hoang
khắp các tỉnh đồng bằng và Trung bộ trên các đồi núi thấp, cây ưa ẩm,
ưa ánh sáng, hơi chịu bóng. Mùa ra hoa vào tháng 2 - 3, mùa quả tháng 4 -
6 hằng năm.
Cây cối xay thuốc tăng tinh dịch
Theo Đông y đằng xay có vị ngọt, tính mát, có công hiệu giảm đau do cảm
gió, thanh huyết nhiệt, giải độc lọc máu, khai khiếu, hoạt huyết, chữa
mụn nhọt, thông tiểu tiện, chữa sốt, chữa tiểu đỏ...
Liều dùng trung bình cho dạng thuốc sắc là 4 - 6g. Lấy lá tươi giã nhỏ đắp mụn nhọt không kể liều lượng.
Theo tài liệu Ấn Độ, đằng xay được sử dụng làm giảm đau, kích thích tình
dục, nhuận tràng, lợi tiểu, dùng lá để trị bệnh về phổi và làm thuốc an
thần. Vỏ cây có chất làm se và lợi tiểu, hạt có tác dụng nhuận tràng và
làm bớt đau.
Toàn cây có tác dụng nhuận tràng, tăng lực, chống viêm... Hoa được sử dụng để làm tăng tinh dịch ở nam giới.
Để cùng tham khảo và áp dụng, dưới đây xin giới thiệu vài phương thuốc tiêu biểu trị bệnh từ cây đằng xay.
Chữa cảm sốt (kể cả đau đầu, ù tai, bí tiểu tiện), bạch đới: Rễ hoặc lá cây đằng xay 4 - 8g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần.
Chữa mụn nhọt, rắn cắn: Dùng lá tươi và hạt cây đằng xay từ 8 - 12g, giã
nhỏ, thêm nước vắt lấy nước cốt uống (dùng trị cả lỵ), bã đắp lên mụn
nhọt hoặc nơi vết rắn cắn.
Chữa vàng da hậu sản: Lá đằng xay 12 - 16g, nhân trần 15g, sắc lấy nước uống thay nước trong ngày. Cần uống 5 - 7 ngày liền.
Làm tăng lượng tinh dịch: Hoa đằng xay 15 - 20g, sắc hãm lấy nước uống hằng ngày (theo tài liệu của Ấn Độ).
Làm thông sữa, nhuận tràng (chữa phụ nữ tắc sữa, thiếu sữa, bệnh đường niệu, ung nhọt):
Dùng đông quỳ tử
10 - 15g, sắc uống, ngày 1 thang; (đông quỳ tử tức là hạt già đã chế
biến khô của cây cối xay của Trung Quốc, còn gọi là cây thương ma tên
khoa học Abutilon avicenae Gaertn, họ bông Malvaceae, có vị ngọt, tính
hàn, đi vào kinh đại tràng và tiểu tràng có công năng lợi tiểu, thông
sữa, nhuận tràng).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét