Cây Cau - Palmier à bétel
Palmier à bétel
Cây cau
Areca catechu L
Arecaceae
Arecaceae
Đại cương :
Cây cau được trồng rộng rãi và mở rộng dưới hình thức những đồn điền lớn ở vùng nhiệt đới như Pakistan và Ấn Độ đến Mả Lai, quấn đảo phía nam Thái bình dương, ngay cả Châu Phi. Chồi ngọn cây, có vị đắng, thường được sử dụng như «bắp cải cọ » « choux palmier »
Các thuật ngữ thông thường bắt nguồn từ chữ Tamoul « areec », tên thông thường của Thực vật cho dân địa phương. đến Bồ đào Nha thì biến thành arec ( cau ). Thuật ngữ chuyên môn, đó là trích chất từ cây Acacia catechu thuộc họ Leguminosae.
Cau thường hay nghĩ sai lệch là cây trầu, bởi vì theo truyền thống ở các nước cau thường được nhai chung với trầu, một lá thuộc nhóm dây leo họ piperaceae….
Cây cau được trồng để lấy hạt, trong lãnh vực thương mại quan trọng gọi là noix arec.
Thực vật và môi trường :
Nguồn gốc : Cây cau là một cây thuộc nhóm cọ arec, một loài cọ mọc trên phần lớn vùng nhiệt đới Thái bình Dương, Châu Á và trong một vài vùng ở Đông Phi. Những cây cọ này có nguồn gốc từ Malaisia hoặc từ Philippines. Cau areca bắt nguồn từ tên địa phương Malabar của Ấn Độ và có một tên khác ở Mả Lai là caccu.
Mô tả thực vật :
Thân cây cau, đơn độc và mảnh khảnh cao khoảng 30 m, đường kính khoảng 15-18 cm, lóng dài 4-10 cm, ban đầu màu xanh lá cây, sau đó trổ màu xám, lá vàng khô rụng để lại những vết sẹo của lá.
Lá, có bẹ gọi là mo, dày như da, phiến dài 1-1,5 m gắn trên đỉnh ngọn của thân, lá hình lông chim, với một cột sống cứng cong, mang một số thứ diệp thường đính thành cập ( 2 gân to ),
Buồng ở phần lá vừa rụng, mang gié đầu nhọn như roi.
Những hoa có mùi thơm và màu vàng, đơn phái, đồng chu hoa đực và hoa cái cùng trên một cây, hợp thành nhóm dưới những lá và bao chung quanh bởi 2 mo.
Hoa đực, nhiều, trắng, nhỏ, ở trên, 6 tiểu nhụy.
Hoa cái ở dưới, to hơn, ít hơn, mà xanh.
Trái khô, màu đỏ ( cau tầm dung ), hình bầu dục, trung quả bì xơ và nội quả bì mỏng và cứng ngấm chất lignin bao chung quanh một hạt, hạt tròn duy nhất, mầm nhỏ
Bộ phận sử dụng :
Trái
Thành phận hóa học và dược chất :
Thành phần hóa học quan trọng nhất của hạt cau là arecoline
Hạt cau chứa những alcaloïdes như :
- arecaine,
- arecoline.
Những hoạt chất chính khác tìm thấy trong trái cau, có thể so sánh với nicotine để có hiệu ứng :
- kích thích,
- ngưng cảm giác đói,
- xông nhe lên não.
Người ta tìm được :
- arécolidine,
- guracine,
- guvacoline,
- và những alcaloïdes khác chưa nghiên cứu.
Khi người ta nhai, người ta thấy thỏa mái dể chịu và hơi gây nghiện.
Hạt cau cũng chứa những chất tanins cô đặc procyanidines còn gọi là arecatannines
Đặc tính trị liệu :
Nhân cau, lá trầu thêm vôi trắng hay hồng và những thảo dược khác. Hiện có rất nhiều người ở Á Châu ăn trầu như thể người Âu Châu uống càphê.
Nếu người ta dùng thường xuyên, răng và miệng sẽ nhuộm màu đỏ sậm. Những người nhai trầu ở Á Châu rất tự hào về vấn đề này.
Nhai trầu cau cho một cảm giác thoải mái và cảm thấy dể chịu trong miệng thông qua não lên thái dương màng tang, khiến người có một thời gian dể chịu thú vị.
Những hạt trái cau này, người ta thường gọi lầm lẫn là hạt trầu, đã được sử dụng rộng rộng rãi, nhất là ở Đông nam Á, như là nhai để :
- kích thích tiêu hóa
- và kích thích hỗ trợ tim,
Nhờ những chất tannins và alcaloïdes
- Dung dịch trích từ trái cau Areca catechu đã cho ta thấy là có đặc tính chống trầm cảm, nhưng nó có thể gây nghiện.
Nghiên cứu :
Sâu răng :
Trong quá khứ, kem đánh răng chứa chất cau được cho là bảo vệ chống sâu răng và tăng cường nướu răng.
Sự nghiên cứu thiếu không đầy đủ cho rằng, kết quả ít sâu răng ở những người nhai trầu cau và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy trầu cau tác dụng chống lại vi khuẩn nhất định sâu răng. Tuy nhiên, miếng trầu cau thực sự có thể có tác dụng có hại cho nướu răng. Lý do vì độc tính được biết đến do sự sử dụng nhân hạt cau và sẳn có của những chất khác đã được chứng minh cho vấn đề vệ sinh răng miệng, có nguy cơ nhân hạt cau đem đến hơn là lợi ích tiềm năng.
Sử dụng căn bản khoa học trên sự kích thích :
Sử dụng nhân hạt cau đề cập đến sự kết hợp giữa 3 thành phần :
- Nhân hạt cau
- Lá trầu,
- và vôi.
Người ta tin rằng với một lượng nhỏ có thể dẫn đến sự kích thích và phấn kích, và nhai trầu cau tạo ra những hiệu ứng kết hợp này. Mặc dù cả 3 thành phần cùng đóng góp vào tính chất trên, nhiều chuyên gia hóa sinh học cho rằng hoá chất hiện diện trong « nhân hạt cau » như những chất alcaloïdes có thể chịu trách nhiệm cho hiệu ứng trên.
Tâm thần phân liệt :
Sơ bộ chưa đầy đủ, cho thấy nghiên cứu ở người, cho thấy những người nhai trầu cau vôi cải thiện được trong các triệu chứng « tâm thần phân liệt Schizophrénie ». Các hiệu ứng có thể do arecoline, một hóa chất có trong nhân hạt cau, mà hành vi hoạt động như là một « chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteur ». Tuy nhiên , tác dụng phụ như run và co cứng đã được ghi nhận. Sự nghiên cứu cần tiếp tục trước khi kết luận chính thức được rút ra.
Thiếu máu
Sơ bộ nghiên cứu chưa đầy đủ cho rằng, nhai trầu cau có thể làm giảm bệnh thiếu máu ở phụ nữ mang thai. Lý do cho sự nghiên cứu này không rỏ ràng, và nhai trầu có thể có hại trong thời kỳ mang thai.
Kích thích nước bọt
Nhai nhân hạt cau có thể tăng bài tiết nước bọt. Tuy nhiên, vẫn chưa rỏ ràng nếu dùng cho tất cả điều kiện sức khỏe đặc biệt. Lý do vì độc tính được biết của sự sử dụng nhân hạt cau có nguy cơ nhiều hơn lợi ích tiềm năng.
Những sử dụng cau đã được thữ nghiệm trên người và thú vật. An toàn và hiệu quả chưa được chứng minh. Một số những điều kiện quan trọng và cần được đánh giá bởi những chuyên gia phụ trách sức khỏe.
Một số chất khác có thể kết hợp với nhân hạt cau khi nhai như thuốc lá, có thể cũng góp phần. Trong lúc, sự sử dụng mãn tính nhân hạt cau có thể tăng nguy cơ :
- một vài chứng ung thư,
- và những hiệu quả tức thì có thể bao gồm sự trầm trọng nguy ngập cho bệnh suyễn,
- huyết áp động mạch cao hay thấp,
- và nhịp đập tim bất thường.
Căn cứ vào tính độc của sự dùng nhân hạt cau được biết, những rủi ro có thể mang đến hơn là lợi ích tiềm năng..
Dị ứng.
Vấn đề hô hấp với sự dùng nhân hạt cau đã được ghi nhận, nhưng không có phản ứng nào được ghi lại trong tài liệu khoa học sẵn có. Sự cẫn thận được kiễm tra ở những người bị dị ứng với những thành phần cây khác thuộc họ cọ Palmaceae.
Hiệu quả xấu và rủi ro :
HẬU QUẢ TRÊN SỨC KHỎE :
Thêm vào cảm giác « sự ngon miệng » có thể thúc đẩy một sự suy dinh dưởng, nhân hạt cau có 2 hậu quả sức khỏe chánh :
- Nguy cơ nghiện ngập : lạm dụng sử dụng có thể đưa đến một sự lệ thuộc, có thể một phần liên quan đến thuốc lá thường được liên kết đến nhân hạt cau.
- Nguy cơ ung thư miệng hay miệng họng và thanh quản ( voies aérodigestives supérieures VADS ) tăng lên đáng kể nếu nhai nhân hạt cau trộn với thuốc lá. Hiệu quả gây ra ung thư của nhân hạt cau chỉ có thể coi bởi OMS (Organisation mondiale de la Santé ), mặc dù những bằng chứng không đủ để phán quyết xảy ra ở một số người. Nhai nhân hạt cau ( noix d’arec ) là một yếu tố gia tăng sự sai nhiễm sắc thể trong tế bào niêm mạc miệng và do đó nguy cơ ưu tiên ung thư xảy ra.
Những nghiên cứu gần đây, tuy nhiên, cho thấy mối tương quan mạnh mẽ giữa sự tiêu thụ trầu cau ( hương vị có hay không có thuốc lá ) và nguy cơ xuất hiện ung thư miệng và trạng thái tiền ung thư.
Tác dụng phụ và sự cảnh báo .
Nhân hạt cau không thể xem như là an toàn cho những người sử dụng qua đường miệng của cơ thể con người. Điều này gây ảnh hưởng độc hại kết hợp khi nhai ngắn hạn hay dài hạn hay ăn nhân hạt cau.
Nhân hạt cau và hoá chất hiện diện trong lá trầu có thể là nguyên nhân :
- những sự thay đổi màu da,
- giản nở đồng tử,
- rối loạn thị giác,
- hơi thở khò khè,
- thở khó,
- và gia tăng nguy cơ cho sự hô hấp.
Run rảy, cữ động chậm chạp, và cứng đã được cảnh báo ở những người dùng nhân hạt cau cũng như dùng thuốc chống chứng tâm thần ( anti-psychotiques ).
Càng xấu thêm những tác động co thắt đã xảy ra ở những người mắc chứng bệnh Huntington.
Những sự kiện trên mang đến cho những người dùng với liều cao.
Cholinergique tác động chôlin ( khẩn trương mê tẩu )
Triệu chứng độc tính sự dùng trầu cau có thể bao gồm :
- sự bài tiết nước bọt,
- chảy nước mắt gia tăng,
- thiếu sự kiểm soát nước tiểu,
- ra mồ hôi,
- tiêu chảy,
- và sốt.
Những vấn đề khác có thể bao gồm những sự nhầm lẫn :
- vấn đề chuyển động của mắt,
- vấn đề rối loạn tâm thần,
- vấn đề mất trí nhớ, chứng hay quên amnésie,
- những hiệu ứng kích thích,
- và một cảm giác hưng phấn.
Những người dùng dài hạn, có thể là một sự phụ thuộc vào tác động bởi những hoạt chất trong lá trầu và nếu ngưng sử dụng có thể đưa đến những dấu hiệu thôi dùng như lo âu hay suy giảm bộ nhớ.
Nhai nhân hạt cau có thể là nguyên nhân gây ra :
- say sống buồn nôn,
- nôn mữa,
- tiêu chảy,
- đau quặn dạ dày,
- đau ngực,
- nhịp tim đập không đều,
- huyết áp động mạch cao hay thấp.
Dữ kiện trên không rõ ràng nếu cho là trầu là nguyên nhân ??
Ở động vật, một chất hóa học hiện diện trong trầu làm hạ đường máu. Mặc dù đối với con người, thiếu sự nghiên cứu trong lãnh vực này, cho nên cẩn thận đối với những người bị bệnh tiểu đường hay co thể không hấp thu dung nạp đường glucose và đang dùng thuốc, thảo dược những gì khác tác dụng trên lượng đường trong máu. Tĩ lượng (taux) đường trong huyết thanh, có thể cần liên tục theo dỏi bởi những người chuyên môn lo về sức khỏe.
Nghiên cứu ở động vật cho thấy tác dụng hỗn hợp trên chức năng của tuyến giáp trạng, và thân nhiệt của da gia tăng.
Các vấn đề khác bao gồm đến mức tăng lượng calcium trong máu và bệnh liên quan đến thận như « hội chứng kiềm sửa», có thể là do carbonate de calcium lúc dùng chung với cau và trầu hấp thụ trong lúc nhai.
Một số nhân hạt cau có thể bị nhiễm những chất có hại , bao gồm cả chất aflatoxin chì Pb
Mang thai và cho con bú
Nhân hạt cau được khuyến cáo không nên dùng trong thời kỳ mang thai và cho con bú, lý do có nguy cơ dị tật bẩm sinh hoặc hư thai tự nhiên.
Ứng dụng :
Phần chuẩn bị « têm trầu » :
Nếu nhai trầu cau để có những đặc tính kích thích của nó, đây cũng là một phần của những nền văn hóa á châu, những kỹ thuật sửa soạn trình bày có khác biệt từng vùng, tùy quốc gia và đã được phát triển ở thế kỷ XX ème.
- Nhân hạt cau hoặc cắt nhỏ hoặc nghiền nát, thường uớp thêm hương vị bởi những gia vị kế trộn với vôi ( oxyde de calcium ) và nhiều nước thời thuộc địa thêm thuốc lá vào.
- Tất cả các thành phần được cuốn bên ngoài bởi lá trầu piper betle, và nhai trong ngôn ngử địa phương người ta chỉ dùng danh từ « trầu » là ăn trầu, tùy theo ngôn ngử gọi chung là « chiquer » dùng để chỉ không khác cho 2 thành phần trầu+cau.
- Vôi ( chaux ) hoạt động như chất xúc tác, có tính chất kiềm. Cau chứa chất arécoline, một alcaloïde thúc đẩy bài tiết nước bọt. Nhân hạt cau nhuộm màu đỏ nước bọt và những răng nhuộm màu cam.
Theo truyền thống, sau 20 phút nhai trầu+cau+vôi, người nhai phải nhổ nước bọt đỏ ra giử phần còn lại và tiếp tục.
Nhân hạt cau là một hoạt chất tác dụng vào nảo bộ, nhưng nó có một thuật :
- nhân hạt phải nhai với một lượng nhỏ vôi nông nghiệp. Vôi cho một hợp chất hoạt động như nhai chung với lá coca.
- Trộn ½ g ( oxyde de calcium hydraté oxyde calcium ngậm nước ) vôi với 1 hạt nhân cau, tốt nhất dưới dạng phân nữa bột. Vôi có thể mua ở những cửa hàng cây cảnh, vôi phải tinh khiết.
- Trộn lẫn nhận hạt cau với vôi để một bên miệng trong thời gian 2 giờ và thỉnh thoảng nhổ nước bọt ra ngoài.
Những vật liệu này hoạt động như một chất kích thích, làm thoải mái dể chịu mặc dù hơi tác động thần kinh đôi chút.
Một số người nhai nhân hạt cau không vôi, cho một vị giác đơn giản.
Ở Việt Nam, Ông Bà còn kèm theo một cục thuốc xỉa …….để bên mép miệng.
Sau đây một đoạn video " Betel Nut - Asia's traditional drug " quang cảnh ở Việt Nam
Cách têm trầu, gọt cau đặc thù của dân quê miền Nam Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét