Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Cây khế sao - Carambolier

Carambolier
Cây Khế sao
Averrhoa carambola L.
Oxalidaceae
Đại cương :
Carambole được biết dưới nhiều tên khác nhau bởi nhiều nước khác nhau. Người ta không nên lầm lẫn với bilimbi ; một loài rất gần với carambole, với loài này caramboli chia xẻ một số tên thông thường như :
- Anh quốc gọi caramboles, carambole,
- Phi luật Tân gọi balimbing saranate,
- Hindi gọi kamrakh,
- Tamil – thambaratham,
- Khmer – Speu,
- Vietnam gọi khế …v…v…
Cây khế đã được trồng trong những vùng Á Châu, đã hằng trăm năm. Các nhà khoa học cho rằng có thể cây khế có nguồn gốc từ Tích Lan hay Moluque hoặc Nam Dương. Người ta có thể tìm thấy nhiều ở những nước vùng nhiệt đới. Hiện nay người ta trồng nhiều ở các nước Đông Nam Á và Mả Lai để lấy trái.
Thực vật và môi trường :
Nguồn gốc : Nguồn gốc hiện nay chưa được xác định, nhưng có thể từ Tích Lan hay Moluques hoặc Nam Dương.
Mô tả thực vật :
Cây tiểu mộc, tăng trưởng chậm nhỏ, không cao quá 5 m thuộc họ Oxalidaceae, vỏ nâu đỏ, nhánh non có lông mịn, nhánh rủ xuống và gổ trắng và đổi thành đỏ nhạt.
 kép, mềm, kích thước trung bình, màu xanh lá cây, kép lẻ hình lông chim, không lá bẹ, có 1 lá 5 đến 11 lá phụ gần như đối nhau 15 – 20 cm dài và 3,8 – 9 cm rộng, dạng bầu dục hay bầu thuông dài, mặt trên lá mịn và mặt dưới mịn có lông trắng. Lá phụ có xu hướng gấp lại vào ban đêm và lá cũng nhạy cảm với xúc hướng động thuận tức khi có một tiếp xúc đột ngột hay một rung động mạnh lá cũng đóng lại .
Chùm tụ tán ở nách lá, cao 3 5 cm, cọng đỏ, hoa  là một chùm nhỏ rậm trên ngọn nhánh hay đôi khi trên một nhánh thân lớn, mỗi chùm hoa nối liền với thân bởi những nhánh cuống đỏ. Hoa có dạng chuông, tạo bởi những nhánh cuống lỏng lẻo phân nhánh nhiều, cọng hoa 2 – 3 mm, lá đài 5, màu đỏ tím nhạt, cánh hoa 5 màu đỏ tím luôn luôn vành có bớt trắng, tiểu nhụy thụ 5, lép 5, bầu noản 5 phòng cho ra 5 vòi nhụy.
Trái cây có màu sắc, hình dạng thuông dài theo chiều dọc 5 góc 5 – 6 góc và 6,35 – 15 cm dài và 9 cm rộng. Trái có da mỏng cấu tạo bởi loại sáp màu da cam, trái màu da cam bên trong khi chín và có một kết cấu hình ngôi sao ở mặt cắt ngang.
Quả có mùi vị acide oxalic, hương vị này thay đổi từ chua đến ngọt nhẹ. Mỗi quả chứa đến 12 hạt kích thước 6 – 12,5 mm dài, phẳng, mịn và màu nâu.
Ngày nay do hình thức canh tác lai giống tạo ra cây khế trái không hạt.
Trái, giàu acide citriqueacide oxalique và vitamine A. Tương đối trái khế nghèo vitamine C.
Khế khía carambolier đòi hỏi sự tiếp nhận ánh sáng mặt trời ít hơn những cây khác của vùng nhiệt đới. Điều tốt nhất là cây khế phơi bày trong « bán » bóng râm. Cây có thể chịu đựng rất yếu nhiệt độ lạnh giá.
Khế carambola được đánh giá thích hợp với khí hậu khô rõ rệt. Cây thích môi trường đất acide và thoát nước. Rất cần thiết cung cấp cho cây nhiều nước trong mùa cây tăng trưởng.
Khế carambola nhân giống bằng cách giâm hom hay bằng hạt.
Người ta quan sát và tính phải mất khoảng 50 ngày giữa thời gian bắt đầu trổ hoa và thu hoặch.
Tùy theo đất đai và giống, nên hương vị cũng có thay đổi chua nhiều hay ít.
Bộ phận sử dụng :
Thân, lá, trái, hoa
Thành phận hóa học và dược chất :
Đặc tính trị liệu :

Sử dụng truyền thống :

Những trái được sử dụng như là :

- thuốc nhuận trường laxatif,

- làm mát,

- kích thích cho một khẩu vị bửa ăn,

- thuốc hạ sốt antipyrétique,

- chất kích thích chảy nước miếng sialogogue,

- thuốc làm se da astringent,

- chống bệnh hoại huyết antiscorbutique,

- chống bệnh kiết lỵ antidysentérique

- và chống lại hỏa vọng  antiphlogistique. ( lý thuyết nhiệt tố trong quá trình đốt cháy đã lỗi thời sau khi Antoine Laurent Lavoisier tìm ra thuyết quá trình đốt cháy có sự tham gia của oxygène )

Khế carambola đã được sử dụng để chữa trị :

- viêm sưng cổ họng inflammations de la gorge,

- loét miệng đau răng aphtes,

- đau răng maux de dents,

- ho toux,

- hen suyễn asthme,

- nấc cục hoquet,

- cảm giác se thắc trong ngực,

- buồn nôn nausées,

- mửa vomissements,

- khó tiêu indigestion,

- đau bụng coliques,

- tiêu chảy diarrhée,

- bệnh vàng da jaunisse,

- và bệnh cổ trướng gọi phúc mạc thủy ascite.

Người ta cho rằng có hiệu quả như một đơn thuốc để chữa trị :

- bệnh trĩ chảy máu hémorroïdes saignantes,

- bệnh thổ huyết hématémèse

- và phân màu đen melaena.

Khế carambola có thể áp dụng trên những vết thương :

- để ngưng chảy máu :

Trái khế khía cũng được dùng để chữa trị :

- chứng phát ban phát chẩn éruptions,

- ngứa prurit,

- say nắng insolation,

- bần niệu gọi tiểu ít oligurie,

- và chứng đái từng giọt hay đái lâu strangurie.

Những người Trung Quốc và Việt Nam sử dụng trái khế vào thuốc nhỏ mắt để chữa trị những bệnh liên quan đến mắt.

Dùng như thuốc kích thích cho những cơ quan sinh dục đàn ông cũng như đàn bà.

Ở người đàn bà, trái khế dùng để tăng sự tạo sửa, nhưng nếu dùng liều quá mạnh có thể đưa đến như thuốc thông kinhemménagogue và có thể đưa đến trụy thai avortement.

Ngưởi ta có thể sử dụng cho những bệnh :

- bệnh tiểu đường diabétiques,

- để giảm huyết áp động mạch ,

- đau cổ họng maux de gorge

- và như thuốc lợi tiểu trong  những khó khăn của thận và bàng quang,

Lá khế nghiền nát hay xay thành bột áp dụng bên ngoài để chữa trị :

- bệnh thủy đậu hay trái rạ varicelle,

- nấm mycoses,

- bệnh trứng tóc sài đầu teigne

- và đau đầu maux de tête.

Trà lá khế carambola đun sôi được dùng để :

- giảm viêm miệng, lở nhọt trong miệng stomatite aphteuse

- và viêm thắt ở ngực angine de poitrine. (Cơn đau thắt ngực, đau ngực do thiếu máu cục bộ (thiếu máu, do đó thiếu cung cấp oxy và loại bỏ chất thải) của cơ tim, thường do tắc nghẽn hoặc co thắt động mạch vành (mạch máu tim). Bệnh động mạch vành, nguyên nhân chính gây đau thắt ngực do xơ vữa động mạch của động mạch tim)

►Trộn lá với trái khế có thể được dùng để trị :

- ngừng nôn mửa

- và chữa trị bệnh sốt.

► Hoa khế  đun sôi được dùng như thuốc trị giun sán vermifuge

Hạt được sử dụng cho :

- bệnh hen suyễn asthme

- và đau bụng coliques.

Đặc tính dữ liệu lâm sàng được học :
 Hoạt động chống viêm :
Trong một nghiên cứu khảo sát đặc tính :
- chống viêm sưng anti-inflammatoire,
- và kháng trùng,
Trong một dung dịch trích từ thân cây khế Averrhoa carambola sử dụng như trong y học dân tộc cho :
- chứng tiểu khó dysurie, đã cho thấy chất này đã ức chế viêm « chân chuột » bởi chất carragenine, là một chất polysaccharide.
Nội phúc mạc intrapéritonale, dung dịch trích Averrhoa carambola cho thấy so sánh hiệu quả với chất acétylsalicylique (AAS ) với liều 300 mg / kg trong giờ đầu vả cho thấy hoạt động mạnh trong một thời gian dài hơn.
● Hoạt động kháng khuẩn :
Trong nghiên cứu tương tự ở trên, khế carambola, cho thấy một hoạt động chống khuẩn bằng cách ức chế vi trùngstaphylococcus aureus, với nồng độ diệt khuẩn tối thiểu concentration minimale bactéricide (MBC) 15,62 mg/ml hay ít hơn.
Trích chất Averrhoa carambola, cũng diệt vi trùng Klebsielle sp ( giá trị MBC 125 mg/ml )
● Hoạt động hạ đường huyết :
Một số chất không tan, giàu chất xơ ( chất xơ thực phẩm không hòa tan, không hòa tan trong alcool và tan trong nước ) được phân lập từ nhu mô hay phần nạt của khế là phần có hiệu quả hạ đường huiyết được chứng minh trong những thí nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Chất xơ có thể thực hiện hấp thu chất đường glucose, làm chậm lại sự phát tán glucose, hoãn sự phóng thích glucose từ tinh bột và ức chế alpha-amylase hoạt động trong một vài phạm vi nhất định. 
● Hoạt động giảm cholestérole và giảm nồng độ chất béo trong máu :
Không tan trong nước phần giàu chất xơ được phân lập từ nạt của khế, cho thấy hoạt động giảm nồng độ cholestérole và chất béo trong máu.
Thí nghiệm trên chuột cho thấy tĩ lượng cholestérole và hiệu quả chất béo, hiệu quả giảm này có được do khả năng tăng cường bài tiết cholestérole và acides mật trong phân fèces.
Chất này làm giảm nồng độ huyết thanh của đường mở triglycérique, cholestérole toàn phần, cholestérole của gan và gia tăng nồng độ chất béo toàn phần, cholestérole và acides mật trong phân.
Hiệu quả xấu và rủi ro : :
Trái khế carambola là một loại trái cây rất phức tạp với nhiều lợi ích, nhưng, như những trái dâu tây fraise, mặc dầu với tỉ lệ nhỏ dân số gặp phải, nên dầu sao cũng nên thận trọng vì lý do sức khỏe.
● Khế carambola, chứa chất acide oxalique, có thể có hại cho cá nhân bị suy thận, sạn thận hay đang điều trị lọc thận .
Tiêu thụ bởi những người bị suy thận có thể gây ra những hậu quả :
- nấc cục hoquets,
- nôn mửa,
- buồn nôn,
- trạng thái hỗn loạn tinh thần confusion mentale.
Những sự diển biến gây tử vong cũng đã được ghi nhận ở một số bệnh nhân trong những trường hợp trên.
● Hiệu quả chất độc thần kinh :
Một báo cáo sơ bộ cho thấy trên sự nhiễm độc bởi trái khế carambola, được quan sát trong 6 trường hợp ở bệnh nhân lọc thận. Sau khi ăn 2 – 3 trái khế hay tương đương với 150 – 200 ml nước ép trái khế.
Kết quả 6 bệnh nhân vốn đã ổn định, tuy nhiên xuất hiện một số triệu chứng khác nhau như mất ngủ, hỗn loạn thần kinh và một trường hợp tử vong.
Trong những tình huống trên nếu kịp thời chữa trị bằng cách điều trị bằng chạy lọc thận nhân tạo phục hồi mà không di chứng.
Dường như trong trái khế carabola có chứa một « chất độc thần kinh » kích thích. Vỉ thế cho nên để phòng ngừa, những bệnh nhân bị suy thận tuyệt đối không dùng khế.
http://duocthaothucdung.blogspot.com/2012/03/cay-khe-sao-carambolier.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét