Tên khác: Cây Lông cu ly – Cây lông khỉ- Kim mao cẩu tích (TQ).
Tên khoa học: Cibotium barometz L.
Họ: Cẩu tích (Dicksoniaceae)
1. Mô tả, phân bố
Cẩu tích thuộc loài quyết thực vật có khi cao tới 2,5m. Lá rất dài (tới 2m), khi còn non cuốn cong hình xoáy trôn ốc. Ở mỗi bên gân giữa của lá có 1 – 2 ổ bào tử nang. Thân rễ có lông tơ màu vàng bao phủ, trông tựa như con chó hay con Cu ly.
Cây mọc hoang rất nhiều Ở các vùng đồi núi nước la. Điển hình là các tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang, v.v…
2. Bộ phận dùng, thu hái
Bộ phận dùng làm thuốc của cây cẩu tích là thân rễ (thường gọi là củ) Thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất là vào dịp cuối thu sang đông (tháng 10 – 12). Đào lấy củ, đem về làm sạch lông nhung bên ngoài bằng cách đốt, phơi sấy thật khô (có thể đồ trước khi phơi sấy khô). Cẩu tích không mùi, vị hơi chát và hơi ngọt.
Cẩu tích đã được ghi trong Dược điển Việt Nam (2002).
3. Thành phần hóa học
Thành phần hóa học của cẩu tích chưa được xác định rõ ràng, chỉ mới phái hiện là có tinh bột.
4. Công dụng, cách dùng
Cẩu tích có tác dụng bổ gan thận, mạnh gân cốt, trừ phong thấp.
Dùng chữa các chứng bệnh: Phong tê thấp, chân tay nhức mỏi, đau lưng, đau dây thần kinh tọa, người già đái giắt, phụ nụ khí hư, bạch đới
Cách dùng: Uống 10 – 20g/ ngày, dạng thuốc sắc. Lông cu ly có tác dụng cầm máu rất tốt, có thể dùng rịt vết thương chảy máu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét