Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Y đức và đạo lí

Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn, chủ trang Tuan's Blog nổi tiếng, có bài viết "Y đức và đạo lí" với những bình luận sắc sảo về vụ thẩm mỹ viện Cát Tường vừa qua. Xin phép được đăng lại để bà còn trong Vitalk cùng đọc:

Vụ bác sĩ thẩm mĩ phi tang thi thể nạn nhân lại dấy lên một làn sóng phê phán ngành y. Xin lỗi các bạn, tôi phải lội ngược dòng một chút. Đọc qua những bàn luận và phản ứng của giới báo chí cũng như một số người trong y giới, tôi nghĩ có một sự ngộ nhận về kĩ nghệ làm đẹp và y khoa, cũng như giữa y đức và đạo lí. Từ ngộ nhận này, có vài phản ứng lệch lạc, và có thể nói là mang màu sắc … cải lương.

Rất nhiều người lầm tưởng rằng giải phẫu thẩm mĩ (GPTM) là ngành y. Xin mở ngoặc ở đây tôi chỉ nói giải phẫu thẩm mĩ (cosmetic surgery), chứ không phải giải phẫu chỉnh hình (constructive surgery) vốn là lĩnh vực của y khoa. Theo tôi thấy, GPTM không thuộc ngành y. Ngành y có thiên chức cứu người, chữa bệnh, và phòng bệnh. Đối tượng của y khoa là bệnh nhân. Còn “khách hàng” của GPTM không phải là bệnh nhân mà là những người bình thường và khoẻ mạnh. GPTM chỉ có mục tiêu làm đẹp trên người không phải là bệnh nhân. Có thể xem GPTM như là một doanh nghiệp làm đẹp và bán cái đẹp. Nên nhớ rằng ngành GPTM được phép quảng cáo, còn ngành y thì không. Theo truyền thống và y đức, bác sĩ không thích quảng cáo vì như thế là tự hạ mình ngang hàng với thợ (bác sĩ là "thầy" - thầy thuốc, chứ không phải thợ). Vì thế những tiêu chuẩn y đức phổ thông dành cho bác sĩ rất khó áp dụng cho GPTM.

Cũng vì thế khi các quan chức và báo chí nói đến y đức của vị bác sĩ phi tang thi thể khách hàng là có phần lệch hướng. Ngành y có những điều lệ y đức, và những điều lệ này kiểm soát hành vi cùng hoạt động của bác sĩ điều trị bệnh nhân, và mối liên hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Ngành GPTM có điều lệ đạo đức riêng của họ vì đối tượng của GPTM khác với ngành y. Không biết bên VN người ta có ethical codes cho ngành GPTM? Nhưng ở nước ngoài ngành GPTM có ethical codes riêng của họ. Chẳng hạn như ở Úc Hội giải phẫu thẩm mĩ có những codes of conduct (chuẩn mực đạo đức hành nghề) bao gồm xuất sắc trong phẫu thuật, thành thật và tôn kính, tình thương, có trách nhiệm, và học thức & tình đồng nghiệp. Những codes này giống như đạo đức doanh nghiệp, rất khác với y đức. Hành động của anh bác sĩ đó phải được xét trong cái khung đạo đức ngành của anh ấy (tức GPTM).

Hành động của anh bác sĩ đó tôi nghĩ vượt ra ngoài phạm vi y đức, mà là đạo lí làm người (morality). Đạo lí làm người cho phép chúng ta phân biệt được cái đúng, cái sai, và “hướng dẫn” cách hành xử. Trên xe điện khi thấy người già yếu mình nhường ghế; trên đường phố khi thấy đám tang người ta cúi đầu; khi thấy người ta mắc nạn mình phải ra tay cứu, v.v. là những codes đạo lí được hình thành từ những tương tác với xã hội theo thời gian. Thực ra, tôi thấy anh bác sĩ ấy là một nạn nhân đáng thương hơn là đáng ghét. Muốn hay không muốn nhận thì sự việc và hành động của anh ấy cũng phản ảnh một phần cái môi trường xã hội mà anh tương tác. Nếu cái môi trường đó xem xét mạng sống con người như cỏ rác thì cũng đừng trách tại sao anh ta không bị ảnh hưởng. Nên tìm hiểu tại sao anh ấy là hành xử “hơn cả xã hội đen”. Có phải vì anh ấy sợ vướng vòng lao lí? Cái lí do sâu xa có lẽ còn thú vị và có thể cho chúng ta nhiều thông tin hơn là nhắm vào cá nhân anh bác sĩ đang rất đau khổ.

Những phản ứng của một số người trong ngành y có vẻ quá cảm tính. Có lẽ vì đọc trên báo thấy người ta phê bình, chỉ trích, sỉ vả ngành y thái quá, nên có người đâm ra chán chường và thất vọng. Có người tự vấn tại sao ngành y bạc bẽo thế?! Theo tôi, không có lí do gì phải tự ti hay phản ứng buồn rầu như thế cả. Không nên quá quan tâm đến báo chí, nhất là báo chí chạy theo những cái tít giật gân và gây cấn. Những người trong giới báo chí đang lớn tiếng phê phán về y đức chưa chắc họ hiểu y đức là gì. Thật ra, có thể chính giới báo chí đang vi phạm chính đạo đức nghề báo (như về tận làng quê của anh bác sĩ và khai thác thông tin mẹ anh ấy). Phản ứng cảm tính theo báo chí là dễ bị mất định hướng lí trí. Những ai chỉ vì một trường hợp cá biệt mà chỉ trích cả ngành y thì chỉ họ chỉ thể hiện sự thấp kém của họ mà thôi.

Ở Úc, có một bác sĩ gốc Ấn Độ từng gây ra cái chết cho hàng chục bệnh nhân, ông trốn về Mĩ, và sau này bị truy bắt về Úc. Báo chí Úc cũng có dịp gây ồn ào, nhưng không có bác sĩ Úc nào cảm thấy xấu hổ hay thấy ngành y bạc bẽo cả. Ở Argentina có bác sĩ kia nghe nói "giết" cả vài trăm bệnh nhân, nhưng ngành y đâu có ảnh hưởng gì. Ai làm sai thì người đó chịu trách nhiệm, chứ không thể vì một cá nhân mà gán ghép cho cả ngành. Tôi e rằng những người nhân danh ngành nghề "cao quí" của mình để cảm thấy xúc phạm đang mang trên vai con chip quá nặng. Đó cũng là một phản ứng theo tôi là có màu sắc cải lương. Xin nói thêm rằng hai chữ "cải lương" ở đây chỉ để nói tình trạng "thương vay khóc mướn" chứ chẳng phải nói xách mé.

Ngành nghề nào cũng có những con “cừu đen” (và “cừu trắng”), và những con cừu này không đại diện cho một quần thể. Bên cạnh những điểm sáng, ngành y ở Việt Nam vẫn còn những điểm chưa sáng, kể cả những vấn đề liên quan đến y đức. Thay vì than vãn một cách cải lương, tôi nghĩ các bạn ấy nên bình tĩnh nhìn vào sự việc để phân tích. Than vãn chẳng giải quyết được điều gì. Vả lại, giải phẫu thẩm mĩ và y khoa khác nhau, và bác sĩ không có lí do gì thấy “xấu hổ” khi có người bên ngành GPTM làm sai. Cho dù nếu ai đó xem GPTM là ngành y, thì một việc làm phi đạo lí của anh bác sĩ kia chưa đủ lí do để các bác sĩ cảm thấy chao đảo.

Phản ứng của một số người trong y tế và báo chí làm lu mờ lằn ranh giữa giải phẫu thẩm mĩ và y khoa. Đó là một điều đáng tiếc, vì sự đánh đồng một vấn đề thuộc phạm trù của đạo lí thành vấn đề y đức. Y đức chỉ là một thành tố trong hệ thống đạo lí, và đạo lí mới là điều đáng quan tâm trong trường hợp của người bác sĩ đang đau khổ với hành động điên rồ của mình.

Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam

Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam

Vì mối liên hệ giữa người thầy thuốc và bệnh nhân, nguyên tắc đạo đức có một giá trị đặc biệt quan trọng trong việc hành nghề chữa bệnh.  Ở đại học, chỉ có sinh viên nghành y phải đọc lời tuyên thệ Hippocrate trước khi tốt nghiệp.  Lời thề Hippocrate có thể thay đổi đôi chút tùy theo văn hóa điạ phương và thời gian, nhưng bản chất và nguyên lí thì vẫn không thay đổi: không làm hại bệnh nhân.  Lời thề Hippocrate cũng còn được lấy làm chuẩn mực đạo đức cho ngành y nói chung (hay còn gọi là “y đức”). 
Hippocarte
Y đức không phải là luật pháp, mà là những qui ước và nguyên tắc được các thành viên trong ngành chấp nhận như là những kim chỉ nam cho việc hành nghề.  Các qui ước này cho phép, nghiêm cấm, hay đề ra thủ tục về các hành xử cho các tình huống khác nhau.  Y đức, do đó, là một luật luân lí về hành vi của người thầy thuốc liên quan đến những gì được xem là tốt và đúng, so với những gì được xem là xấu và sai. 
Y đức Việt Nam
Để xác định được một hành động hay quyết định là tốt hay xấu, người quyết định phải so sánh những lựa chọn của họ với những chuẩn mực đạo đức và giá trị mà xã hội chấp nhận.  Mỗi xã hội đều có cái “bóng” văn hóa, do đó y đức cũng thay đổi tùy theo văn hóa và điạ phương.  Chẳng hạn như người theo đạo Hồi có những chuẩn mực y đức khác đôi chút so với người theo đạo Kitô. 
Năm 1996, Bộ Y tế ban hành 12 điều y đức (hay “12 tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế”).  Kể từ đó đến nay, 12 điều y đức được lồng kính và trịnh trọng treo ở các bệnh viện, trung tâm y tế, nhưng có lẽ ít người thuộc, và càng ít hơn số người thực hiện 12 điều y đức đó.  Đã đến lúc chúng ta thử đọc lại những qui ước nước ta xem có gì khác với y đức quốc tế và có cần bổ sung hay sửa đồi? 
Nói chung, 12 điều y đức nước ta cũng phù hợp với qui ước y đức của Tổ chức Y khoa Thế giới (World Medical Association), và cũng lấy bối cảnh văn hóa Việt Nam làm nền tảng.  Tuy nhiên, cũng như phần lớn những chuẩn mực khác ở nước ta, 12 điều y đức của Việt Nam mang tính ôm đồm, bao quát, hiểu theo nghĩa cái gì người ta có thì chúng ta cũng có.  Điều này dẫn đến một hệ quả là 12 tiêu chuẩn y đức trở nên rườm rà, thiếu tính logic và khúc chiết.  Phần lớn các nguyên tắc y đức trên thế giới tập trung vào những khía cạnh như chuyên môn, bệnh nhân, luật pháp, và cộng đồng.  Nhưng đọc qua 12 điều y đức của Việt Nam, tôi không thấy một cấu trúc logic như trên; thay vào đó là những câu văn dài nhưng thiếu tính liên tục. 
Thật vậy, đọc kĩ 12 điều y đức của Việt Nam, tôi có cảm tưởng đó là một văn bản tập hợp nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau của những người tham gia soạn thảo, và kết quả là một sự nhân nhượng và thỏa thuận để đi đến 12 qui ước nhằm làm hài lòng mọi người!  Điều này dẫn đến một số trùng lập, thừa, hay thậm chí mâu thuẫn.
Thừa và không cần thiết
            Mở đầu bản y đức, Điều 1 viết “Chǎm sóc sức khoẻ cho mọi người là nghề cao quý. Khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ.” Thật ra, câu văn này không thể xem là qui ước, điều lệ, hay nguyên tắc y đức, mà chỉ là phát biểu mang tính khẩu hiệu.  Ngành nghề phục vụ nào cũng cao quí, chứ chẳng riêng gì ngành y tế.  Quét đường hay hớt tóc cũng là những nghề cao quí.   
Điều 1 còn nói đến “lời dạy của Bác Hồ” nhưng không một chỗ nào trong 12 điều y đức nói đến những lời dạy đó là gì!  Theo tôi, đoạn này nên bỏ vì thừa và không cần thiết.  Cần nhắc lại rằng trước đây (năm 1990), Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chuẩn cho trẻ 5-6 tuổi, trong đó có chuẩn “Biết thương yêu, kính trọng ông bà, cha mẹ, yêu kính Bác Hồ, những người lao động …”, nhưng nay chuẩn này cũng đã được loại bỏ vì thiếu thực tế.
Điều 1 còn yêu cầu người thầy thuốc chẳng những không ngừng học tập mà còn “tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn”.  Đây là một yêu cầu thiếu thực tế (và khó thực hiện), bởi vì không phải bác sĩ hay y sĩ nào cũng có điều kiện nghiên cứu khoa học.  Ngay cả việc học tập cũng khó khăn.  Không một trường y hay bệnh viện nào ở nước ta có đủ sách vở và tập san  y khoa để sinh viên và thầy cô tham khảo, thì làm sao đòi hỏi người thầy thuốc học tập liên tục được.  Thật ra, có nhiều [nếu không muốn nói là phần lớn] y bác sĩ không có kĩ năng đọc và hiểu một bài báo khoa học, không phải vì vấn đề trình độ mà vì chưa được huấn luyện một cách có bài bản trong thời gian theo học trường y. Ở nước ngoài mà tôi biết (như Mĩ và Úc), không có qui ước này trong các nguyên tắc y đức.  Do đó, tôi đề nghị bỏ điều này và thay vào một điều khác thực tế hơn, chẳng hạn như “Người thầy thuốc phải liên tục học hỏi và trao dồi chuyên môn, và duy trì các chuẩn mực của chuyên ngành ở mức cao nhất”.
Trùng lập, luộm thuộm và mâu thuẫn
Điều 3 khuyên người thầy thuốc nên hành xử “lịch sự”, nhưng Điều 4 lại một lần nữa yêu cầu “thái độ niềm nở, tận tình, trang phục phải chỉnh tề”.  
Thật ra, hai điều này rất luộm thuộm, dài dòng, và chẳng có điểm gì mang tính khúc chiết.  Chẳng hạn như Điều 3, phần đầu đề cập đến “Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân”, thì ngay câu sau đề cập đến “Tôn trọng những bí mật riêng tư của người bệnh; khi thǎm khám, chǎm sóc cần bảo đảm kín đáo và lịch sự.  Hai điều này hoàn toàn khác nhau, không thể nhập chung thành một điều được. 
Ngoài ra, tôn trọng quyền riêng tư của bệnh nhân là một chuyện, nhưng nếu bệnh nhân phạm tội hình sự và pháp luật có quyền yêu cầu bác sĩ cung cấp thông tin liên quan, thì có thể người thầy thuốc phải tuân thủ theo luật pháp địa phương. Qui ước y đức của Mĩ viết một cách gọn gàng mà đầy đủ: “Người thầy thuốc phải tôn trọng quyền của bệnh nhân, đồng nghiệp, và các nhân viên y tế khác, và phải bảo vệ sự riêng tư của bệnh nhân trong phạm vi luật pháp cho phép”.
            Điều đáng ngạc nhiên là sau khi đề cập đến “Quan tâm đến những người bệnh trong diện chính sách ưu đãi xã hội” (Điều 3), tức có phân biệt đối xử thành phần bệnh nhân, nhưng ngay sau đó lại yêu cầu “Không được phân biệt đối xử với người bệnh” (Điều 4)!  Như thế là mâu thuẫn.  Mọi thành phần trong xã hội, kể cả người mất quyền công dân, đều có quyền bình đẳng trước việc được chữa trị và tiếp cận dịch vụ y tế. Qui ước về “diện chính sách ưu đãi xã hội” chẳng những khó hiểu (và dễ bị lạm dụng) mà còn mang dáng dấp của thời bao cấp.  Theo tôi, cần phải bỏ đoạn phân biệt đối xử này khỏi qui ước y đức Việt Nam. 
Những điều không giống ai
Tham khảo qui ước y đức của Hiệp hội Y khoa Thế giới và Mĩ, và so sánh với 12 điều y đức của Việt Nam tôi thấy một số điều … không giống ai.  Chẳng hạn như Điều 5 viết “Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy người bệnh” chẳng những quá tủn mủn mà còn không cần thiết. Tôi không thấy trên thế giới có điều lệ y đức này.  Qui ước của Mĩ viết như sau: “Người thầy thuốc (ngoại trừ các trường hợp cấp cứu) trong điều kiện thích hợp, có quyền chọn lựa ai để phục vụ, ai cần liên hệ, và có quyền chọn môi trường để cung cấp dịch vụ y khoa.”
Tính tủn mủn còn thấy trong Điều 7 (Không được rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh”), Điều 8 (Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chǎm sóc và giữ gìn sức khỏe”) và Điều 9 (Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết”) thật ra không phải là qui ước đạo đức, mà thực chất là những thủ tục hành chính và có chút giọng … lên lớp.  Theo tôi, những điều này cần phải bỏ khỏi qui ước y đức.
Điều 10 yêu cầu người thầy thuốc phải Thật thà, đoàn kết tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau” mang màu sắc thời bao cấp.  Truyền thống “tôn sư trọng đạo” đáng được duy trì, nhưng không ai có thể kính trọng thầy cô làm sai hay thầy cô bất tài hay thiếu y đức.  Do đó, khái niệm “đoàn kết” ở đây có thể bị lạm dụng để bao che cho những đồng nghiệp và bậc thầy thiếu tư cách và vô y đức.  Thật ra, về mối quan hệ với đồng nghiệp, các qui ước y đức quốc tế cho phép người thầy thuốc báo cáo cho nhà chức trách biết những thầy thuốc thiếu tư cách, hay bất tài, hay liên đới đến những vụ lừa đảo.  Theo tôi, điều này cần phải sửa và viết lại theo các chuẩn mực quốc tế.
Về Điều 11 (“Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình không đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước”) có lẽ chỉ có Việt Nam ta có, vì không thấy điều này trong bất cứ qui ước y đức nào.  Tuy nhiên, có qui ước đề cập đến trường hợp bản thân người thầy thuốc nếu mắc bệnh thì cần phải tìm đồng nghiệp chữa trị. 
Và những vấn đề thực tế
            Điều 2 viết Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của người bệnh.”  Điều hai đề cập đến 2 vấn đề không liên quan mật thiết với nhau: tuân thủ pháp luật và thí nghiệm không theo nguyên tắc khoa học.  Ở nước ngoài, người ta cũng có qui ước như “người thầy thuốc phải tôn trọng luật pháp địa phương” với hàm ý nói nếu các cơ quan công quyền theo luật địa phương yêu cầu người thầy thuốc cung cấp thông tin về bệnh nhân (để điều tra tội phạm) thì người thầy thuốc phải tuân theo.  Tưởng cần nhắc lại về những tranh cãi chung quanh việc một số bác sĩ quân đội Mĩ tham gia vào những cuộc tra tấn tù nhân ở trại giam Guatemala, vì có người cho rằng dù bác sĩ làm theo lệnh của quân đội nhưng như thế là phạm y đức.  Theo tôi, Điều 2 thừa, không cần thiết đặt trong phạm trù y tế địa phương.
            Nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng là những lĩnh vực hoạt động quan trọng trong y khoa, vì y học tiến bộ nhờ vào nghiên cứu.  Nghiên cứu cần đến sự tình nguyện của bệnh nhân.  Không có bệnh nhân tình nguyện là không có nghiên cứu y học.  Do đó, tất cả các nghiên cứu y khoa phải được tiến hành theo các tiêu chuẩn y đức của Tổ chức Y tế Thế giới và Tuyên bố Helsinki, mà theo đó, lợi ích của bệnh nhân phải được tuyết đối bảo đảm.  Quan trọng nhất là bệnh nhân phải đồng thuận thì người thầy thuốc mới được phép thử nghiệm.  Nhưng rất tiếc, trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu lâm sàng ở các nước đang phát triển, kể cả ở nước ta, được tiến hành không tuân theo các chuẩn mực đạo đức quốc tế này.  Có nhiều trường hợp bệnh nhân không hề biết mình bị đưa vào các chương trình thử nghiệm mà kết quả đôi khi chỉ để phục vụ cho mục tiêu thương mại chứ không để nâng cao sức khỏe cho người dân.
            Điều 12 viết Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, cứu chữa người bị nạn, ốm đau tại cộng đồng; gương mẫu thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường trong sạch.”  Điều này quá chi tiết vào lĩnh vực hẹp, không khái quát hóa chung cho tất cả thầy thuốc được; hơn nữa nó cũng là vấn đề toàn xã hội chứ chẳng riêng gì ngành y tế.  Về quan hệ với quần chúng, qui ước y đức của Tổ chức Y khoa Thế giới viết: có trách nhiệm giáo dục công chúng về những khám phá mới trong y học, nhưng cần phải cẩn thận trong việc áp dụng các phương pháp còn trong vòng thử nghiệm.
Điều 6 viết Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý an toàn; không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất, thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh.”  Theo tôi, điều này chưa đầy đủ.  Người thầy thuốc cần phải tuyệt đối trung thành với bệnh nhân. Bất cứ khi nào phương pháp điều trị hay xét nghiệm ngoài khả năng của mình, người thầy thuốc phải giới thiệu đến một chuyên gia khác.
            Điều 4 yêu cầu “Khi tiếp xúc với người bệnh và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình; trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người bệnh. Phải giải thích tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị” là hoàn hợp lí và rất cần thiết trong tình hình y đức hiện nay ở nước ta.  Tuy nhiên, những bác sĩ phải khám 100 bệnh nhân một ngày chắc không dấu được cười mỉm khi đọc Điều này.  Nếu một ngày làm 5 giờ khám (300 phút) và 100 bệnh nhân cũng có nghĩa là mỗi bệnh nhân chỉ có thể khám trong vòng 3 phút, thì lấy đâu thì giờ để giải thích cho bệnh nhân ?!
            Do đó, không ngạc nhiên chút nào trước kết quả của một cuộc điều tra bỏ túi cho thấy 70% bác sĩ chỉ “nói qua loa”, thậm chí có đến 16% “chẳng nói gì”.  Cố nhiên, viết ra những điều này không có ý bênh thầy thuốc, nhưng để chỉ ra rằng qui ước y đức của Bộ Y tế không mang tính thực tế.
            Còn “lịch sự và thái độ tận tình”?  Một cuộc điều tra nhanh cho báo Vnexpress thực hiện cho thấy gần 80% người trả lời cho biết hay bị nhân viên y tế quát mắng.  Chỉ đọc qua những tựa đề về lối hành xử vô văn hóa của một số thầy thuốc và nhân viên y tế như “Ăn mắng” khi vào bệnh viện, Bác sĩ mắng bệnh nhân như mắng con, Tôi rất sợ đi bệnh viện, v.v… mà thấy “đắng nghét”. Có người thậm chí còn đặt câu hỏi: Nhà ghét hay nhà thương ?!
Có người biện minh rằng vì đồng lương quá thấp và áp lực công việc nên một số thầy thuốc có thái độ bất xứng và vô văn hóa với bệnh nhân. Nhưng tôi e rằng biện minh này không thuyết phục, nếu không muốn nói là ngụy biện, vì thu nhập chẳng có liên quan gì đến đạo đức.  Không có cơ sở nào để nói vì nghèo hay vì thu nhập thua kém người khác, nên phải hành xử vô giáo dục và thất đức.  Chợt nhớ đến ngày xưa, một danh y người Việt, Lê Hữu Trác (tức Hải Thượng Lãng Ông), từng liệt kê ra một danh sách các vấn đề y đức mà ông cho là “tội”, trong đó có các tội như tội như hóng hách, lười biếng, chẩn đoán qua loa và tội dốt.  Theo ông, y sĩ mà thiếu đạo đức thì chẳng khác gì “bọn cướp”.
Lê Hữu Trác
           Khoảng 2 năm trước, một cuốn sách về y đức xuất bản ở Trung Quốc làm rúng động lương tâm dư luận một thời gian.  Trong sách “Nỗi đau của Trung Quốc, tác giả là một thượng nghị sĩ điều tra và mổ xẻ những vi phạm y đức tràn lan trong giới y bác sĩ Trung Quốc dưới hình thức lừa đảo, bòn rút tiền bệnh nhân, liên minh ma quỉ để khai thác bệnh nhân, điều trị “quá độ” (tức điều trị không cần thiết), hãm hại bệnh nhân v.v… Nhưng trớ trêu thay, bệnh nhân chẳng biết gì, chỉ nằm nhà chờ chết và tự trách mình nghèo!  Ở nước ta cũng không thiếu những trường hợp này, nhưng có lẽ chúng ta chưa đủ can đảm để vạch ra những mảng tối đang hoành hành xã hội hiện nay.
            Nói cho cùng, những điều lệ y đức chỉ bề mặt, bề ngoài, áp dụng cho mọi người trong ngành y, nhưng đạo đức con người mới là biện pháp bề trong ở mỗi cá nhân.  Bề ngoài, một người thầy thuốc có thể phạm y giới và bị kỉ luật, nhưng bề trong là chuẩn mực y đức làm kim chỉ nam để cá nhân người thầy thuốc ý thức được rằng hành động của mình là có hại cho bệnh nhân.  Qui ước đạo đức nước ta đã trải qua 13 năm, và trong thời kì kinh tế hiện nay cùng với sự hội nhập của đất nước, đã đến lúc các qui ước y đức Việt Nam cần được soạn lại sao cho phù hợp với giá trị văn hóa Việt Nam và chuẩn mực y đức thế giới.  
12 điều y đức
(Tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế)
(Ban hành kèm theo quyết định số: 20881BYT-QĐ ngày 06 tháng 11nǎm 1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
1. Chǎm sóc sức khoẻ cho mọi người là nghề cao quý. Khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức của thầy thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khǎn gian khổ vì sự nghiệp chǎm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của người bệnh.

3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân. Tôn trọng những bí mật riêng tư của người bệnh; khi thǎm khám, chǎm sóc cần bảo đảm kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến những người bệnh trong diện chính sách ưu đãi xã hội. Không được phân biệt đối xử với người bệnh. Không được có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

4. Khi tiếp xúc với người bệnh và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình; trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người bệnh. Phải giải thích tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị; phổ biến cho họ về chế độ, chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người bệnh; động viên an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi phục. Trong trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa và chǎm sóc đến cùng, đồng thời thông báo cho gia đình người bệnh biết.

5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy người bệnh.

6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý an toàn; không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất, thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh.

7. Không được rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh.

8. Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chǎm sóc và giữ gìn sức khỏe.

9. Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.

10. Thật thà, đoàn kết tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.

11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình không đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.

12. Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, cứu chữa người bị nạn, ốm đau tại cộng đồng; gương mẫu thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường trong sạch.

 

Lời thề Hippocrate

Nguyên tắc đạo đức y khoa
(Hội Y học Mĩ)

  1. Người thầy thuốc phải tận tâm chăm sóc sức khỏe với sự cảm thông và tôn trọng danh dự và quyền con người.
  1. Người thầy thuốc phải duy trì các chuẩn mực của chuyên ngành, thành thật trong tất cả các giao tiếp chuyên môn, và phấn đấu báo cáo nhà chức trách những thầy thuốc thiếu tư cách, hay bất tài, hay liên đới đến những vụ lừa đảo.
  1. Người thầy thuốc phải tôn trọng luật pháp và nhận lãnh trách nhiệm theo đuổi những cải cách nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân.
  1. Người thầy thuốc phải tôn trọng quyền của bệnh nhân, đồng nghiệp, và các nhân viên y tế khác, và phải bảo vệ sự riêng tư của bệnh nhân trong phạm vi luật pháp cho phép.
  1. Người thầy thuốc phải liên tục học hỏi, ứng dụng, và trao dồi kiến thức khoa học; duy trì học thuật y khoa; cung cấp những thông tin liên quan đến bệnh nhân, đồng nghiệp, và công chúng; tư vấn và sử dụng tài năng của các chuyên gia khác khi cần thiết theo chỉ định.
  1. Người thầy thuốc (ngoại trừ các trường hợp cấp cứu) trong điều kiện thích hợp, có quyền chọn lựa ai để phục vụ, ai cần liên hệ, và có quyền chọn môi trường để cung cấp dịch vụ y khoa.
  1. Người thầy thuốc phải nhận lãnh trách nhiệm tham gia vào các hoạt động nhằm cải thiện cộng đồng và y tế công cộng.
  1. Người thầy thuốc trong khi chăm sóc bệnh nhân phải xem nhiệm vụ của mình đối vụ bệnh nhân là trên hết.
  1. Người thầy thuốc phải ủng hộ mọi thành phần trong xã hội được quyền tiếp cận dịch vụ y khoa.
 
17/6/ 2001
Nguồn: AMA

Qui ước đạo đức nghành y của Hiệp hội Y khoa Thế giới (World Medical Association 

Nhiệm vụ chung của người thầy thuốc: người thầy thuốc phải:
1.            thực hành nghề nghiệp và duy trì chuẩn mực chuyên môn ở mức độ cao nhất.
2.            tôn trọng quyền của bệnh nhân chấp nhận hay bác bỏ đề nghị của thầy thuốc.
3.            không để cho phán xét cá nhân bị chi phối bởi quyền lợi cá nhân hay phân biệt đối xử. 
4.            hết lòng trong việc cung cấp dịch vụ chuyên môn cho bệnh nhân.
5.            hành xử thành thật với bệnh nhân và đồng nghiệp.  Báo cáo cho giới chức có trách nhiệm biết những thầy thuốc thiếu y đức hoặc bất tài hoặc có hành vi lừa đảo.
6.            không thuyên chuyển bệnh nhân hoặc ra toa thuốc để hưởng lợi ích tài chính hay quà cáp.
7.            tôn trọng quyền và sự lựa chọn của bệnh nhân.
8.            có trách nhiệm giáo dục công chúng về những khám phá mới trong y học, nhưng cần phải cẩn thận trong việc áp dụng các phương pháp còn trong vòng thử nghiệm.
9.            cố gắng sử dụng tài nguyên y tế một cách sáng suốt nhằm đem lại lợi ích cho bệnh nhân và cộng đồng.
10.        tìm người điều trị nếu mình mắc bệnh.
11.        tôn trọng các chuẩn mực đạo đức địa phương và quốc gia.
Nhiệm vụ chung của người thầy thuốc đối với bệnh nhân: người thầy thuốc phải:
12.        tôn trọng sinh mạng của con con người.
13.        hành động vì lợi ích của bệnh nhân.
14.        tuyệt đối trung thành với bệnh nhân. Bất cứ khi nào phương pháp điều trị hay xét nghiệm ngoài khả năng của mình, người thầy thuốc phải giới thiệu đến một chuyên gia khác.
15.        tôn trọng quyền riêng tư của bệnh nhân. Không tiết lộ bất cứ thông tin nào về bệnh nhân cho bất cứ ai, nếu không có sự đồng thuận của bệnh nhân.
16.        cung cấp dịch vụ chăm sóc trong trường hợp khẩn cấp.
17.        không quan hệ tình dục với bệnh nhân. Không lợi dụng mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân.
Nguồn: World Medical Association. International code of medical ethics. World Medical Association Bulletin 1949;1(3): 109, 111.

y đức

Câu hỏi: Y đức là gì ? Nêu 6 mối quan hệ trong Y đức ?

Y đức là đạo đức của người hành nghề Y tế, thể hiện qua các tiêu chuẩn nguyên tắc đạo đức được xã hội thừa nhận, nhằm điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của thầy thuốc đối với bệnh nhân và cộng đồng. Y đức xác định trách nhiệm, lương tâm, danh dự và niềm hạnh phúc của người thầy thuốc.

Một số VD về y đức:
- Bác sỹ điều trị cho Bệnh nhân thì dù cho Bệnh nhân hay Gia đình họ có điều kiện kinh tế là giàu hay nghèo, có chức quyền hay không thì vẫn hết lòng điều trị, cứu chữa và chăm sóc, không hề phân biệt và đối xử.
  - Có trường hợp, Bác sỹ dù có hiểu lầm hay xích mích với một người mà sau này người này lại trở thành Bệnh nhân của Bác sỹ nọ. Bác sỹ không vì thế mà thù hằn hay bỏ mặc Bệnh nhân mà vẫn tận tình cứu chữa. Như vậy Bác sỹ đã giữ được lương tâm và trách nhiệm hay chính là y đức của mình

Khi nói về Y đức, thực chất là nói về các mối quan hệ giữa thầy thuốc với nghề nghiệp, với bệnh nhân , với đồng nghiệp và cộng đồng xã hội, cần phải thực hiện tốt các mối quan hệ đó, cụ thể là:

1. Mối quan hệ giữa Cán bộ y tế với nghề nghiệp:
Khi đã tình nguyện làm nghề Y phải vun đắp cho chính mình lòng yêu nghề, ham mê công việc, cần cù học tập, vươn lên phấn đấu " vừa hồng vừa chuyên". Trong đó '' Hồng "  tức là đạo đức là rất quan trọng; " Chuyên " là phải giỏi về chuyên môn. Muốn " Hồng thắm thì phải chuyên sâu ". Nghĩa là muốn thể hiện y đức, muốn cứu chữa được nhiều người thì phải giỏi về chuyên môn. Thực tế, có những thầy thuốc rất nhiệt tình, lo lắng cho bệnh nhân nhưng do trình độ chuyên môn yếu nên cũng không thể cứu chữa được bệnh nhân trong những tình trạng hiểm nghèo.
  VD: Những người thầy thuốc giỏi cả về chuyên môn và có y đức thì sẽ cứu chữa được nhiều bệnh nhân, ngược lại nếu thầy thuốc dù rất nhiệt tình, lo lắng cho Bệnh nhân nhưng do trình độ chuyên môn yếu nên cũng không thể cứu chữa được Bệnh nhân trong những tình trạng hiểm nghèo.

2. Mối quan hệ của người Cán bộ y tế với bệnh nhân :
Phải tôn trọng và cảm thấy sâu sắc với bệnh nhân , tận tình cứu chữa, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. Không phân biệt giữa bệnh nhân giàu hay nghèo. Thực hiện chữa theo bệnh, thận trọng trong chẩn đoán, điều trị và chăm sóc bệnh nhân . Cố Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch đã nêu 3 yêu cầu ngắn gọn để cán bộ, nhân viên dễ nhớ, làm tốt với bệnh nhân là:
- Đến: đón tiếp niềm nở.
- Ở: chăm sóc tận tình.
- Đi: dặn dò ân cần.

VD: Bác sỹ không phân biệt đối xử giữa Bệnh nhân có BHYT hay không có BHYT, vẫn tận tình Khám chữa bệnh cho họ. Hay có những Bệnh viện, phòng khám, những nơi mà Bệnh nhân thì đông mà Bác sỹ thì thiếu, làm việc không hiệu quả, Bác sỹ dễ cáu gắt, nóng nảy với Bệnh nhân là không nên.

3. Bổn phận đối với khoa học:
Luôn phải tìm tòi, nghiên cứu nhằm nâng cao hiểu biết, trình độ tay nghề để phục vụ nhân dân được tốt hơn. Đã làm nghề y, không bao giờ được bằng lòng, thỏa mãn với những gì mình đã biết.
VD: Vừa hành nghề, Bác sỹ vẫn vừa phải tự mình học hỏi, trau dồi kiến thức, tiếp cận KHKTcủa thế giới để áp dụng vào thực tế công việc của mình.

4. Mối quan hệ giữa Cán bộ y tế với người thầy, với đồng nghiệp:
Mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân là mối quan hệ cơ bản nhất, là nơi thể hiện rõ ràng nhất về Y đức " Lương Y phải như từ mẫu - Thầy thuốc phải như mẹ hiền ".
Dân tộc Việt Nam có truyền thống " Tôn sư trọng đạo ", đã học thầy, phải kính trọng và nhớ ơn thầy, giúp đỡ thầy khi già yếu hoặc gặp khó khăn

VD: Mỗi con người muốn học hành thành tài thì đều phải nhờ vào sự dạy dỗ, bảo ban của người thầy. Phải tôn trọng, quý trọng và biết ơn thầy giáo của mình. Sau này có thể sẽ trở thành đồng nghiệp với thầy của mình nhưng vẫn phải thể hiện sự tôn trọng thầy chứ thực tế có những trường hợp trước thì học thầy, sau này ra trường làm cùng nghề với thầy, thì có thể không nhận thầy _ nếu thầy không có chức vị cao, thậm chí còn có người sưng hô ông - tôi, cậu - mình, bằng vai phải lứa hết, không tỏ ra kính trọng thầy dạy mình. Như vậy thật đáng trê trách.
Đối với đồng nghiệp phải khiêm tốn học hỏi, thật thà, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau, không nói xấu và đổ lỗi cho đồng nghiệp. Tự giác nhận trách nhiệm về mình khi bản thân có sai sót.
VD: Có trường hợp thấy bạn hơn mình thì tỏ ra ghen ghét, đố kị, thậm chí nói xấu, hãm hại nhau. Làm chung mà cùng có lỗi hay lỗi do mình nhưng lại đổ cho đồng nghiệp. Như vậy cũng không được. Hay như có trường hợp thấy Bệnh nhân gặp nguy cấp, là ca trực hay trách nhiệm của đồng nghiệp, lẽ ra mình có thể giúp được hay cảnh báo cho bạn nhưng vì ích kỷ hay muốn hại bạn, không muốn bạn hơn mình mà bỏ mặc Bệnh nhân , dẫn tới Bệnh nhân bị nguy hiểm tới tính mạng.

5. Mối quan hệ giữa Cán bộ y tế với học trò:
Tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, dậy dỗ cho học trò nhằm tạo ra người thầy thuốc có đủ năng lực và phẩm chất để kế tục, phát huy truyền thống của ngành.
VD: Đã là thầy giáo thì nên truyền đạt hết những gì mà mình biết và những kinh nghiệm mà mình tích lũy được cho học trò. Không vì học trò sau này sẽ là đồng nghiệp với mình, "sợ mất miếng cơm" mà giấu nghề, không truyền đạt hết cho học sinh. Bởi vì: thành công của học trò cũng chính là thành công của người thầy đã dạy học trò đó.

6. Mối quan hệ giữa Cán bộ y tế với cộng đồng xã hội:
  Phải luôn quan tâm tới Sức khỏe của cộng đồng, kể cả người nhà của bệnh nhân. Gương mẫu thực hiện và tuyên truyền vệ sinhphòng bệnh, rèn luyện Sức khỏe và cứu chữa người bị nạn.
VD: Người Cán bộ Y tế không chỉ quan tâm tới Sức khỏe của Bệnh nhân lúc đó mà cần quan tâm cả về sau này, quan tâm cả cuộc sống và Gia đình Bệnh nhân để có thể tìm ra cách tốt nhất Sức khỏe lâu dài cho họ. Tham gia vào các cuộc vận động, tuyên truyền Sức khỏe, Vệ sinh phòng bệnh ở địa phương. Cứu giúp Bệnh nhân ngay cả khi gặp họ trong cuộc sống chứ không chỉ mỗi lúc họ tìm đến mình ở Bệnh viện hay phòng khám.

Tóm lại, khi các mối quan hệ trên được thực hiện tốt thì Y đức đạt được chuẩn mực của đạo đức nghề nghiệp và người thầy thuốc thực sự là thầy thuốc của nhân dân, là mẹ hiền của nhân dân.

Lời thề Hippocrates

HippocraticOath

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/1a/HippocraticOath.jpg 

 

Ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, các thầy thuốc phải đọc Lời thề Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp.
Người ta cho rằng Hippocrates (được coi là cha đẻ của Y học phương Tây) hoặc một đệ tử của ông chính là tác giả của lời thề này.[1] Nó được viết bằng tiếng vùng Ionia của Hy Lạp cổ đại (cuối thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên).[2] Học giả cổ điển Ludwig Edelstein đã cho rằng các lời tuyên thệ này được viết bởi các môn sinh phái Pythagore, tuy nhiên thuyết này đã bị nghi ngờ do thiếu bằng chứng xác thực.

 

„Ὄμνυμι Ἀπόλλωνα ἰητρὸν, καὶ Ἀσκληπιὸν, καὶ Ὑγείαν, καὶ Πανάκειαν, καὶ θεοὺς πάντας τε καὶ πάσας, ἵστορας ποιεύμενος, ἐπιτελέα ποιήσειν κατὰ δύναμιν καὶ κρίσιν ἐμὴν ὅρκον τόνδε καὶ ξυγγραφὴν τήνδε.
Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Æsculapius thần y học, trước thần HygieiaPanacea, và trước sự chứng giám của tất cả các nam nữ thiên thần, là tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây:
  • Ἡγήσασθαι μὲν τὸν διδάξαντά με τὴν τέχνην ταύτην ἴσα γενέτῃσιν ἐμοῖσι, καὶ βίου κοινώσασθαι, καὶ χρεῶν χρηίζοντι μετάδοσιν ποιήσασθαι, καὶ γένος τὸ ἐξ ωὐτέου ἀδελφοῖς ἴσον ἐπικρινέειν ἄῤῥεσι, καὶ διδάξειν τὴν τέχνην ταύτην, ἢν χρηίζωσι μανθάνειν, ἄνευ μισθοῦ καὶ ξυγγραφῆς, παραγγελίης τε καὶ ἀκροήσιος καὶ τῆς λοιπῆς ἁπάσης μαθήσιος μετάδοσιν ποιήσασθαι υἱοῖσί τε ἐμοῖσι, καὶ τοῖσι τοῦ ἐμὲ διδάξαντος, καὶ μαθηταῖσι συγγεγραμμένοισί τε καὶ ὡρκισμένοις νόμῳ ἰητρικῷ, ἄλλῳ δὲ οὐδενί.
  • Tôi sẽ coi các thầy học của tôi ngang hàng với các bậc thân sinh ra tôi. Tôi sẽ chia sẻ với các vị đó của cải của tôi, và khi cần tôi sẽ đáp ứng những nhu cầu của các vị đó. Tôi sẽ coi con của thầy như anh em ruột thịt của tôi, và nếu họ muốn học nghề y thì tôi sẽ dạy cho họ không lấy tiền công mà cũng không giấu nghề. Tôi sẽ truyền đạt cho họ những nguyên lý, những bài học truyền miệng và tất cả vốn hiểu biết của tôi cho các con tôi, các con của các thầy dạy tôi và cho tất cả các môn đệ cùng gắn bó bởi một lời cam kết và một lời thề đúng với Y luật mà không truyền cho một ai khác.
  • Διαιτήμασί τε χρήσομαι ἐπ' ὠφελείῃ καμνόντων κατὰ δύναμιν καὶ κρίσιν ἐμὴν, ἐπὶ δηλήσει δὲ καὶ ἀδικίῃ εἴρξειν.
  • Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh tùy theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công.
  • Οὐ δώσω δὲ οὐδὲ φάρμακον οὐδενὶ αἰτηθεὶς θανάσιμον, οὐδὲ ὑφηγήσομαι ξυμβουλίην τοιήνδε. Ὁμοίως δὲ οὐδὲ γυναικὶ πεσσὸν φθόριον δώσω. Ἁγνῶς δὲ καὶ ὁσίως διατηρήσω βίον τὸν ἐμὸν καὶ τέχνην τὴν ἐμήν.
  • Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu và cũng không tự mình gợi ý cho họ; cũng như vậy, tôi cũng sẽ không trao cho bất cứ người phụ nữ nào những thuốc gây sẩy thai. Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết.
  • Οὐ τεμέω δὲ οὐδὲ μὴν λιθιῶντας, ἐκχωρήσω δὲ ἐργάτῃσιν ἀνδράσι πρήξιος τῆσδε.
  • Tôi sẽ không thực hiện những phẫu thuật mở bàng quang mà dành công việc đó cho những người chuyên.
  • Ἐς οἰκίας δὲ ὁκόσας ἂν ἐσίω, ἐσελεύσομαι ἐπ' ὠφελείῃ καμνόντων, ἐκτὸς ἐὼν πάσης ἀδικίης ἑκουσίης καὶ φθορίης, τῆς τε ἄλλης καὶ ἀφροδισίων ἔργων ἐπί τε γυναικείων σωμάτων καὶ ἀνδρῴων, ἐλευθέρων τε καὶ δούλων.
  • Dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại nhất là tránh cám dỗ phụ nữ và thiếu niên tự do hay nô lệ.
  • Ἃ δ' ἂν ἐν θεραπείῃ ἢ ἴδω, ἢ ἀκούσω, ἢ καὶ ἄνευ θεραπηίης κατὰ βίον ἀνθρώπων, ἃ μὴ χρή ποτε ἐκλαλέεσθαι ἔξω, σιγήσομαι, ἄῤῥητα ἡγεύμενος εἶναι τὰ τοιαῦτα.
  • Dù tôi có nhìn hoặc nghe thấy gì trong xã hội, trong và cả ngoài lúc hành nghề của tôi, tôi sẽ xin im lặng trước những điều không bao giờ cần để lộ ra và coi sự kín đáo trong trường hợp đó như một nghĩa vụ.
  • Ὅρκον μὲν οὖν μοι τόνδε ἐπιτελέα ποιέοντι, καὶ μὴ ξυγχέοντι, εἴη ἐπαύρασθαι καὶ βίου καὶ τέχνης δοξαζομένῳ παρὰ πᾶσιν ἀνθρώποις ἐς τὸν αἰεὶ χρόνον. Παραβαίνοντι δὲ καὶ ἐπιορκοῦντι, τἀναντία τουτέων.“
  • Nếu tôi làm trọn lời thề này và không có gì vi phạm tôi sẽ được hưởng một cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của mọi người. Nếu tôi vi phạm lời thề này hay tôi tự phản bội, thì tôi sẽ phải chịu một số phận khổ sở ngược lại.

 

Trong khung cảnh hiện đại, lời thề Hippocrates đã bị bỏ, thay đổi hay thay thế bằng các lời thề phản ảnh giá trị văn hóa và xã hội ngày nay, nhất là tại các trường y khoa phương Tây.
Lời thề Hippocrates cũng đã được đổi mới dựa theo Tuyên ngôn Geneva. Hội đồng Y khoa (General Medical Council) của Anh đã có một hướng dẫn rõ cho các thành viên của họ trong các tài liệu sau Duties of a doctorGood Medical Practice

Y huấn cách ngôn

Từ xa xưa đại danh y Lê Hữu Trác trong cuốn Y huấn cách ngôn đã cho rằng: "Đạo y là một nhân thuật, chuyên lo tính mệnh con người, phải biết lo lắng cái lo của người, cùng vui với cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống người làm phận sự của mình, không được mưu lợi kể công".
Do vậy suy cho cùng, cái tâm con người là quan trọng. Học rất nhiều về y đức nhưng nếu học vẹt, không có tâm thì sẽ vẫn vô cảm với nỗi đau của người bệnh, của đồng loại… Do vậy không thể hô hào y đức chung chung mà phải xem xét nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về y đức để đề ra các biện pháp khắc phục.
Nghề y là một nghề đặc biệt, vì vậy không phải ai cũng có thể trở thành thầy thuốc. Những ai có mục đích kiếm tiền bằng nghề y thì tốt nhất là không theo nghề này. Và bản thân y đức cũng không phải là cái để học được, mà mỗi y, bác sỹ phải luôn tâm niệm "thương người như thể thương thân", có như vậy mới giữ được tâm sáng, lòng trong khi hành nghề y- một sứ mệnh thiêng liêng cao cả.