Cây chỉ thiên mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở các bãi trống, bờ ruộng, ven đường, ven rừng. Cây còn có những tên khác, như “cây thổi lửa”, “cỏ lưỡi mèo”, “cỏ lưỡi chó”, “co tát nai” (dân tộc Thái); “nhả đản” (dân tộc Tày); một số ông lang hay gọi là “tiền hồ nam”. Trong các sách Trung dược, cây có tên là “khổ địa đảm”, còn có tên “thiên giới thái”, “thổ sài hồ”, “thổ bồ công anh”, “xuy hỏa căn” (rễ thổi lửa), “thiết tảo trửu” (cái chổi sắt)... Tên khoa học là Elephantopus scarber L., thuộc họ cúc (Asteraceae).





Cây và hoa chỉ thiên.



Chỉ thiên là loài cỏ sống dai, thân cao chừng 20-50cm, có mang nhiều cành gần như không có lá, cả cây có lông. Lá gốc mọc thành hình hoa thị, sát đất. Phiến lá dài chừng 6-12cm, rộng 3-5cm, hình thìa, có lông trắng ở cả hai mặt, mép có răng cưa lượn sóng, phía dưới hẹp lại thành cuống rộng ôm vào thân. Lá ở thân nhỏ và hẹp hơn lá ở gốc. Hoa màu tím mọc thành xim có đầu giả. Quả hình thoi có 10 cạnh lồi. Mùa hoa quả: tháng 1-8. Để dùng làm thuốc có thể thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô. Lưu ý: Do trùng tên, cây chỉ thiên (thổi lửa) nói ở đây dễ bị lẫn với cây “chỉ thiên giả”, cũng gọi là “tiền hồ nam”, tên khoa học là Clerodendrom inducum (L.) O Ktze, họ cỏ roi ngựa, thường dùng làm thuốc bổ đắng, tiêu đờm, chữa ho và trừ giun.

Theo Đông y, cây chỉ thiên có vị đắng, tính mát; vào 3 kinh phế, tỳ và can. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, khoan trung hạ khí, lợi tiểu, tiêu thũng. Chủ trị cảm sốt, ho, họng sưng đau, đau mắt đỏ, chảy máu mũi, tiêu chảy, vàng da, viêm thận phù thũng, ung nhọt, rắn cắn.

- Liều dùng: 9-16g khô (hoặc 30-60g tươi) sắc lấy nước hoặc giã vắt lấy nước cốt uống. Dùng ngoài giã đắp hoặc nấu nước xông rửa.

- Kiêng kỵ: Người cơ thể suy nhược, phụ nữ có thai cần thận trọng khi sử dụng. Không dùng đối với bệnh thuộc “chứng hàn”.

Một số bài thuốc có dùng cây chỉ thiên:

Chữa chứng lâm (đái buốt, đái ra máu, sỏi, đái đục, nước tiểu lẫn chất nhày): Dùng cây chỉ thiên, rễ bấn đỏ, rễ vậy trắng, rễ cỏ tranh, cỏ bấc, thịt ốc nhồi – mỗi thứ một nắm, sắc nước uống (Tuệ Tĩnh – Nam dược thần hiệu). Chú thích: Bấn đỏ còn gọi là “mò đỏ”, “vậy đỏ”, “xích đồng nam”; vậy trắng còn gọi là “bấn trắng”, “mò trắng”, “bạch đồng nữ”.

Chữa môi lở sưng đau: Dùng lá chỉ thiên tươi, rửa sạch, thêm chút muối, giã nhỏ, vắt lấy nước bôi hoặc đắp vào chỗ đau (Hải Thượng Lãn Ông – Bách gia trân tàng).

Chữa mụn nhọt, đinh râu: Dùng lá tươi giã với giấm hoặc mẻ đắp.

Chữa rắn cắn: Dùng cả cây tươi giã nuốt nước, bã đắp. Có thể phối hợp với lá bồ cu vẽ, lá ớt.

Chữa chảy máu mũi: Dùng cây chỉ thiên tươi 20-30g, nấu với một lượng thích hợp gan lợn, ăn gan và uống nước thuốc, dùng liên tục 3-4 ngày.

Chữa vàng da (thể dương hoàng): Dùng cây chỉ thiên tươi, nhổ liền cả rễ 100-150g, nấu với thịt lợn ăn, dùng liên tục 4-5 ngày.

Chữa cổ trướng: Dùng cây chỉ thiên tươi 60g, sắc lấy nước, chia thành 2 phần uống trong ngày, sáng sớm và buổi tối; cũng có thể đem nấu với thịt lợn ăn.

Chữa bí đái: Dùng cây chỉ thiên tươi 20-30g, sắc nước uống.

Chữa cước khí: Dùng toàn cây chỉ thiên tươi 30-60g, đậu phụ 60-120g, hầm lên ăn.

Chữa chứng nhiệt lâm (đái nhỏ giọt, niệu đạo nóng buốt...): Dùng toàn cây chỉ thiên tươi 120g, thịt lợn nạc 150-200g, một chút muối. Tất cả cho vào nồi, sắc lấy nước, bỏ bã, chia thành 4 lần uống trong ngày.

Chữa ung nhọt độc mọc ở dưới nách: Dùng toàn cây chỉ thiên tươi, thêm chút muối và giấm cùng giã nát đắp vào chỗ bị bệnh, dùng băng dính cố định lại; nhọt đã mưng mủ vẫn chữa được.

Chữa họng sưng đau, viêm amidan: Dùng chỉ thiên 10g khô, hãm với 300ml nước sôi trong nửa tiếng, chia ra uống trong ngày. Cũng có thể dùng lá tươi, nhai lẫn với chút muối, nuốt dần.

Chữa khoang miệng, lưỡi bị viêm loét: Dùng chỉ thiên 30g khô, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, tác dụng phụ: trong bụng có cảm giác hơi khó chịu; người già và trẻ nhỏ dùng phải thận trọng.