Tên tiếng anh/Tên khoa học:
Medicinal Indian Mulberry
Các tên gọi khác
Tên khoa học: Morinda officinalis How
Thuộc họ Cà phê: Rubiaceae.
Tên gọi khác: ba kích thiên, cây ruột gà, chẩu phóng xì, thao tầy cáy, ba kích nhục, liên châu ba kích.
Mô tả sơ bộ về cây ba kích
Ba kích là loại cây thân thảo, dây leo, có thể sống lâu năm.
- Thân non tím nhạt, có cạnh dọc thân, phủ lông mềm màu nâu vàng
- Lá đơn nguyên mọc đối chữ thập, dài từ 6-14 cm, rộng từ 2,5-6 cm, hình mác; lá lúc non có màu xanh, về già có màu trắng mốc.
- Hoa lúc đầu trắng sau vàng có từ 2 - 10 cánh hoa, 4 nhị.
- Quả hình cầu, khi chín màu đỏ.
- Mùa ra hoa khoảng tháng 5-6, quả chín tháng 12, thân nhiều đốt to 3-5 mm.
- Rễ củ soắn như ruột gà dài 15-20 cm, to 1 - 2 cm chia nhiều đoạn to thắt đều đặn.
Cây ba kích
Phân loại
- Có hai loại ba kích trong tự nhiên: Ba kích tím và ba kích trắng.
+ Ba kích tím: Màu củ có màu vàng sậm, phần thịt bên trong có màu hanh
tím. Khi ngâm rượu làm cho màu rượu chuyển thành màu tím sậm.
+ Ba kích trắng: Củ có màu vàng nhạt, phần thịt bên trong màu trắng
trong, không có sắc tím. Khi ngâm rượu: rượu chuyển màu tím nhạt.
Ba kích tím và ba kích trắng
Trong tự nhiên 80-90% cây ba kích là loại ba kích trắng còn lại là ba
kích tím, chưa có tài liệu nào chứng minh là ba kích trắng không tốt
bằng ba kích tím (kể cả trong các tài liệu đông y).
Hiện nay, do tác dụng của cây ba kích; ba kích trong tự nhiên đã được
khai thác triệt để, ba kích tím và ba kích trắng trong tự nhiên rất
hiếm. Ba kích được trồng hiện nay chủ yếu là ba kích tím.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Phân bố: Cây ba kích mọc hoang ở ven rừng, trên đồi rậm giữa các bụi
bờ, bãi hoang nhiều nhất ở Quảng Ninh (Hải Ninh, Hồng Quảng), Hà Tây
(nay thuộc Hà Nội), Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang. Hiện nay, nhu cầu về
ba kích làm dược liệu và trong nhân dân lớn nên cây ba kích đã được Viện
dược liệu, các đơn vị chuyên ngành nghiên cứu và đưa vào quy trình
trồng.
- Bộ phận dùng thu hái: Bộ phận dùng làm thuốc của Ba kích là rễ, đây là loại dược liệu quý có vị cay ngọt, tính hơi ôn.
Chọn những cây mọc lâu năm, đào lấy rễ to có đường kính từ 7mm trở lên
(Ba kích trồng từ 3 năm trở lên cho thu hoạch), nên thu hoạch vào mà
đông là tốt nhất. Rễ sau khi đào lên rửa sạch đất, loại bỏ rễ con, phơi
gần khô dùng chày gỗ đập nhẹ cho bẹp phần thịt (tránh giập nát) để lộ
lõi nhỏ bên trong rút bỏ lõi, rồi phơi hoặc sấy tiếp cho thật khô.
Điều kiện sinh thái
- Trong tự nhiên cây Ba kích sinh trưởng, phát triển tốt ở những vùng
có đặc trưng khí hậu nhiệt đới, một năm có hai mùa rõ rệt (mùa mưa và
mùa khô). Nhiệt độ không khí trong mùa khô từ 8-24 0C, mùa nóng từ 28-35
0C. Độ ẩm không khí trung bình cả năm trên 80% và tổng lượng mưa cả năm
đạt 1100-2000mm.
- Ba kích là loại cây ưa bóng, mọc tốt ở các vùng đất khác nhau kể cả
nơi đất nghèo kiệt, vùng có độ tán che thấp 0,3-0,5 (30-50%). Thích hợp
nhất là vùng trung du miền núi có độ cao khoảng 300 - 400m so với mặt
nước biển.
- Ba kích trồng thích hợp khi trồng trên đất ẩm mát và thoát nước tốt,
thành phần cơ giới trung bình (cát pha đến thịt), tầng đất dày trên 1m,
nhiều mùn, tơi xốp. Không trồng ở nơi ngập úng.
Công dụng của Ba kích
- Theo tài liệu cổ: Ba kích có vị cay ngọt, tính hơi ôn. Vào thận kinh.
Có tác dụng ôn thận trợ dương, mạnh gân cốt, khử phong thấp. Dùng chữa
dương ủy, phong thấp cước khí, gân cốt yếu, mềm, lưng gối mỏi đau. Người
âm hư, hỏa thịnh, đại tiện táo bón cấm dùng.
- Trong nhân dân, ba kích được dùng phổ biến làm thuốc bổ, tăng lực.
Qua điều trị thử nghiệm đạt kết quả sau: đối với nam giới có hoạt động
sinh dục yếu, ba kích có tác dụng làm tăng khả năng giao hợp, đặc biệt
đối với các trường hợp khả năng giao hợp yếu và thưa. Tuy không làm tăng
đòi hỏi tính dục, nhưng ba kích có tác dụng tăng cường sức dẻo dai;
không thấy có tác dụng giống androgen trên lâm sàng. Ba kích không làm
thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện
hoạt động sinh dục cũng như điều trị vô sinh cho những nam giới có
trạng thái vô sinh tương đối nhẹ và suy nhược thể lực. Còn các trường
hợp tinh dịch ít, tinh trùng chết nhiều, không có tinh trùng không xuất
tinh khi giao hợp, sử dụng ba kích chưa thấy kết quả.
- Đối với người cao tuổi, những người thường có biểu hiện mệt mỏi, kém
ăn, ít ngủ, người gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý gây nên,
một số trường hợp có đau mỏi các khớp, ba kích có tác dụng tăng lực rõ
rệt thể hiện qua những cảm giác chủ quan như đỡ mệt mỏi, ngủ ngon, ăn
ngon và những dấu hiệu khách quan như tăng cân, tăng cơ lực. Còn đối với
những người đau mỏi các khớp, sau khi dùng ba kích dài ngày các triệu
chứng đau mỏi giảm rõ rệt.
- Trong Đông y, ba kích thường được phối hợp với các vị thuốc khác để
ngâm rượu hoặc sắc uống tùy bệnh mà thầy thuốc sẽ bắt mạch và kê đơn cho
phù hợp.
- Kiêng kỵ: Đối với bệnh nhân âm hư hỏa vượng, đại tiện táo kết không nên dùng ba kích.
Thành phần hóa học của Ba kích
Có nhiều tài liệu nghiên cứu về thành phần hóa học có trong Rễ ba kích
(là phần có tác dụng dược lý làm cho cây ba kích trở thành một cây thuốc
quý).
- Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS.TS. Đỗ Tất Lợi:
Trong rễ ba kích chủ yếu có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất
đường, nhựa và axit hữu cơ. Trong rễ tươi có vitamin C, tuy nhiên trong
ba kích khô không có vitamin C.
- Theo Chinese Hebral Medicine: Trong rễ của Ba kích có các thành phần
hóa học chủ yếu là các axit amin và các vitamin sau Gentianine,
Carpaine, Choline, Trigonelline, Díogenin, Yamogenin, Gitogenin,
Tigogenin, Vitexin, Orientin, Quercetin, Luteolin, Vitamin B1.
- Theo Tài nguyên cây thuốc Việt Nam: Rễ ba kích chứa Antraglycozid,
đường, nhựa, Acid hữu cơ, Phytosterol và ít tinh dầu, Morindin. Rễ tươi
có sinh tố C.
Như vậy, rễ ba kích là bộ phận có nhiều thành phần hóa học giúp cho Ba
kích có nhiều công dụng đặc biệt như nêu ở mục trên. Gồm các chất cơ bản
sau:
- Anthraglucozit: Khi thủy phân anthraglucozit tạo thành hoạt chất
anthraquinon là những dẫn chất của dixeton-anthraxen. Hoạt chất
anthraquinon có tác dụng thanh nhiệt, hạ hỏa và giải độc, ích thận hay
cường gân cốt. Ngoài ra hoạt tính anthraquinon còn có tác dụng giảm đâu,
trị viêm da hay cầm máu, kháng khuẩn, bảo vệ gan và giảm cholesterol
máu.
Ngoài ra anthraquinon còn có tác dụng giảm đau, điều trị viêm da, ngăn
ngừa tối đa sự xâm nhập của các độc tố, vi khuẩn. Tác dụng nhuận tràng,
hạ hỏa, giải độc, hoạt huyết, tác dụng lợi mật, cầm máu, kháng khuẩn,
lợi tiểu, bảo vệ gan và giảm cholesterol máu.
- Các axit hữu cơ (hay axit amin): Gentianine, Carpaine, Choline,
Trigonelline, Diosgenin, Yamogenin, Gitogenin, Tigogenin, Vitexin,
Orientin, Quercetin, Luteolin. Đây là những axit rất cần thiết cho cơ
thể, giúp cơ thể khỏe mạnh.
- Các vitamin: B1, C.
Tác dụng dược lý
- Tác dụng tăng lực: Bằng phương pháp chuột bơi thực hiện trên chuột
nhắt trắng, ba kích với liều 5-10g/kg dùng liên tiếp 7 ngày trước lúc
thí nghiệm, có tác dụng kéo dài thời gian chuột bơi.
- Tác dụng chống độc: Dùng phương pháp gây nhiễm độc cấp bằng các tiêm
ammoni clorur cho chuột nhắt trắng, ba kích với liều 15g/kg có tác dụng
tăng sức chống đỡ của cơ thể với yếu tố độc hại.
- Tác dụng chống viêm: Trên mô hình gây phù chân chuột cống trắng bằng
kaolin, ba kích dùng với liều 5-10g/kg có tác dụng chống viêm rõ rệt.
- Tác dụng trên hệ nội tiết: Thí nghiệm trên chuột cống trắng đực chứng
tỏ ba kích không có tác dụng giống androgen, nhưng có khả năng tăng
cường hiệu lực của androgen.
- Ngoài các tác dụng trên, nước sắc ba kích còn có tác dụng tăng cường
co bóp ruột, hạ huyết áp. Độc tính cấp: trên chuột nhắt trắng bằng đường
uống ba kích có LD50 bằng 193g/kg; chứng tỏ ba kích có độ độc rất thấp.
Một số cách dùng Ba kích trong dân gian và bài thuốc có Ba kích
- Ba kích nấu thịt trai: ba kích thiên 30g, thịt trai 300g, gừng tươi,
gia vị, nước đủ dùng. Thịt trai rửa sạch, thái miếng. Ba kích rửa sạch.
Cho tất cả vào nồi nước đã đun sôi, rồi vặn nhỏ lửa hầm khoảng 3 giờ,
nêm gia vị vào là dùng được. Ăn cùng với cơm. Món ăn có công dụng hỗ trợ
điều trị liệt dương, yếu sinh lý, giúp bổ thận dương.
- Trà lá ba kích: lá ba kích 30g, đường đỏ. Lá ba kích rửa sạch, bỏ vào
nồi, đổ vào 200ml nước. Dùng lửa lớn nấu sôi, sau đó vặn nhỏ lửa nấu 5
phút, thêm chút đường đỏ vào là được. Uống thay trà. Công dụng: bổ can,
thận, giảm huyết áp.
- Ba kích hầm đuôi lợn, đậu đen: đuôi lợn 50g, đỗ trọng 20g, ba kích,
tục đoạn 20g, thung dung 20g, đậu đen 30g, gia vị vừa đủ. Đuôi lợn rửa
sạch đem hầm với các vị thuốc trên nêm gia vị vừa dùng. Dùng liên tục 7 –
10 ngày. Công dụng: bổ thận, sinh tinh.
- Cháo ba kích hầm thịt dê: thịt dê 100g, ba kích khô 15g, gạo tẻ 150g.
Thịt dê thái nhỏ ướp gia vị, ba kích buộc vào túi vải. Cho tất cả vào
nồi hầm thành cháo, nêm gia vị là ăn được. Món cháo có công dụng bổ tỳ
thận, sinh tinh.
- Chữa cao huyết áp cho phụ nữ thời kỳ mãn kinh: Tiên mao, Dâm dương
hoắc, Ba Kích, Tử mẫu, Hoàng bá, Đương quy. 6 vị mỗi vị 12g, đổ 600 ml
nước sắc còn 200 ml chia 3 lần uống trong ngày, điều trị liên tục 3 th
- Chữa chân gối tê mỏi ở người già yếu: Ba Kích 10g, Thục địa 10g, Nhân
sâm 4g, Thổ ty tử 6g, Bổ cốt toái 5g, Tiểu hồi hương, sắc 600 ml nước
còn 200 ml chia 3 lần uống trong ngày.
- Ba kích dùng để ngâm rượu: Đây là cách được áp dụng trong dân gian từ
trước tới nay. Rượu ba kích được coi là một loại xuân dược. Một trong
các cách sử dụng rễ ba kích và phát huy được tác dụng của vị thuốc này
là ngâm với rượu. Rượu ba kích có tác dụng tăng cường chức năng sinh lý
cho nam giới, bổ sung các loại khoáng chất, giúp tăng cường sức đề kháng
cho cơ thể, bổ thận tráng dương, kiện gân cốt, trị bệnh yếu sinh lý.
Nên ngâm ba kích với rượu có nồng độ cao trên 40oC, với nồng độ này các tinh chất trong ba kích sẽ được chiết xuất tối đa.
Bình thường, khi chế biến, chúng ta có thể rửa sạch ba kích để ráo
nước, tiến hành bóc lõi bỏ đi, chỉ lấy lại phần thịt của củ sau đó ngâm
rượu hay kết hợp với các bài thuốc khác.
Ngoài ra, người ta có thể sử dụng ba kích phối hợp với một số vị thuốc
khác để tăng thêm tác dụng như thuốc hoàn ba kích: ba kích 80g, sừng
hươu 200g, tiểu hồi 60g, phụ tử chế 16g, quế nhục 30g, thục địa, hoài
sơn, mỗi vị 160g, mật ong vừa đủ làm hoàn. Ngày dùng 3 lần, mỗi lần 16 -
20g nếu không uống được rượu.