Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

Vị thuốc huyền thoại được tìm ra bởi một lương y huyền thoại

 

Từ rất lâu, Tía tô là một vị thuốc không thể thiếu trong bài thuốc xông chữa cảm hàn lưu truyền trong dân gian vô cùng hiệu nghiệm. Người bị chứng cảm hàn, thường ngất lịm, cứng miệng, tay chân, toàn thân lạnh ngắt… Nếu không gần nơi bệnh viện hay không được sơ cứu đúng cách ngay thì bệnh nhân rất dễ tử vong hoặc để lại tai biến lâu dài sau này. Bài thuốc xông của người dân trung du miền núi vùng Thanh – Nghệ rất đơn giản nhưng luôn có tác dụng triệt để trong chữa trị chứng cảm này.

Bài thuốc gồm có: Tía tô, Cúc tần, Lá bưởi, Lá tre gai, Cây sả, Kinh giới, Ngải cứu…, mỗi thứ một nắm (150g-200g tươi) cho vào nồi nước đun sôi rồi cho bệnh nhân trùm mền xông. Nếu bệnh nhân quá nặng, người ta lấy một chén (bát ăn cơm) nước xông mới đun xong ra quạt cho nhanh nguội rồi cạy miệng bón cho bệnh nhân uống (trường hợp bệnh nhân không còn có thể tự uống) hết chén nước là có thể hồi tỉnh để xông thuốc.

Bí mật hiệu quả của bài thuốc xông này nằm ở 4 vị thuốc chính là Tía tô (Tử tô) – Cúc tần – Ngải cứu, Kinh giới làm chủ vị.

Tía tô là một cây thường dùng làm gia vị ở miền Bắc và cũng là một cây thuốc có nhiều công dụng. Tác dụng chữa bệnh của cây này gắn liền với một truyền thuyết rất lý thú, được ghi lại trong sách Bách thảo dược dụng thú loại như sau:

Tương truyền một hôm Hoa Đà đi hái thuốc, ngồi nghỉ bên bờ sông tại một địa phương ở Giang Nam, tình cờ ông nhìn thấy một con rái cá đang ăn ngấu nghiến những con cua. Một lát sau, con rái cá đó ngã xuống, quằn quại trên mặt đất trông hết sức đau đớn. Hoa Đà tự nhủ: Có lẽ do con rái cá ăn quá nhiều cua chăng? Rồi Hoa Đà lại thầm nghĩ, thử xem nó có tìm cách gì để tự giải cứu hay không?

Sau đó, Hoa Đà thấy con rái cá bắt đầu cố lê lết bò men theo bãi sông, tìm đến chỗ một bụi cây màu tím thì dừng lại và ăn lá của cây ấy. Con rái cá nằm xuống nghỉ một lát, sau đã đứng dậy đi lại, như chưa hề xảy ra chuyện gì.

Thấy vậy, Hoa Đà bèn hái một bó cành và lá cây đó mang về tìm hiểu, cho từng ít vào miệng nếm thử, thấy có vị cay. Là một thầy thuốc giỏi thiên phú, ông suy nghĩ mãi và cuối cùng ông đã ngộ ra rằng, lá của thứ cây đó có thể hóa giải được việc trúng độc cua của con rái cá. Suy nghĩ tiếp, ông nhận thấy, cua là loại vật sống dưới nước, dòng máu lạnh, tính hàn, như vậy theo nguyên tắc “hàn giả nhiệt chi” (bệnh hàn thì dùng thuốc nóng để chữa) thì cành lá thứ cây màu tím đó phải có tính ôn.

Từ đó về sau, cứ đến mùa cua, hễ có người ăn quá nhiều cua mà bị trúng độc, đau bụng và tìm đến chữa, Hoa Đà đều dùng lá của thứ cây màu tím đó sắc lấy nước cho bệnh nhân uống, đều rất linh nghiệm, chỉ một lúc sau là người bệnh đã cảm thấy dễ chịu. Từ đó Hoa Đà đặt tên cho thứ cây đó là Tử thư. Vì là thứ cây lá màu tím và uống vào cảm thấy thư thái.

Về sau trong quá trình sử dụng, người ta còn phát hiện ngoài tác dụng của cây tía tô là giải trúng độc cua, thứ cây màu tím này còn có rất nhiều tác dụng khác nữa. chỉ có điều, hiện nay vị thuốc thu hái toàn thân của thứ cây màu tím này không còn được gọi là Tử thư nữa, mà là biến đổi thành Tử tô. Đó là do Tử thư và Tử tô, phát âm gần giống như nhau. Mà cũng có thể, do nhầm lẫn trong ghi chép của đời sau vậy.

Tác dụng của cây tía tô:

Về phương thuốc giải độc của cây Tía tô trong truyền thuyết nói trên. Ngày nay được dùng để giải độc khi ăn nhằm các loại hải sản (cua, cá..) bằng cách dùng một nắm lá Tía tô tươi (250g) giã nát vắt lấy nước cho uống.

Một trường hợp do người viết đã chữa trị bị trúng độc cá nóc ở Phú Quốc (tên Vỹ) rất hiệu quả bằng cách này. Sau đó kết hợp bài thuốc Tía tô giải độc thang gia giảm gồm: Tía tô 18g, Sinh khương (gừng tươi) 8g; Bạc hà 8g; Cam thảo 4g.

Ngoài tác dụng giải trúng độc cua, trong quá trình sử dụng tía tô làm thuốc, người ta còn phát hiện thêm rất nhiều tác dụng khác nữa. Đặc biệt nữa là, tất cả các bộ phận của cây đều có thể sử dụng để làm thuốc, Đông y thường sử dụng nhiều bài thuốc với những vị thuốc từ cây tía tô:

Tô diệp: là lá tía tô. Thu hái vào lúc cây bắt đầu có hoa là tốt nhất, phơi khô ở nơi râm mát và thoáng gió, cất đi dùng dần. Tô diệp được xếp vào loại thuốc “tân ôn giải biểu” (chữa cảm lạnh) thường dùng để chữa chứng cảm hàn nhẹ. Theo Đông y, tô diệp có vị cay, tính ẩm, vào các kinh Phế và Tùy. Có tác dụng phát biểu tán hàn (giải cảm lạnh), lý khí hòa trung (điều hòa chức năng tiêu hóa) và an thai. Chủ trị ngoại cảm phong hàn, tỳ vị khí trệ (đầy bụng, tiêu hóa kém), thai động không yên, giải độc cua, mật cá.

Tô ngạnh: Cành tía tô. Theo Đông y, tô ngạnh có vị ngọt, tính ôn bình, vào 3 kinh Phế – Tỳ – Vị. Có tác dụng điều khí giải uất, giảm đau, an thai, làm mạnh dạ dày, chống nôn mửa. Chủ trị ngực bụng đầy tức, động thai.

Tác dụng giải cảm của tô ngạnh không mạnh bằng tô diệp, nhưng lại có thêm tác dụng điều khí giải uất tương đối bình hòa, nên rất thích hợp với trường hợp cơ thể suy nhược.

Tử tô: là quả chín của cây tía tô (thường gọi nhầm là hạt vì hạt tía tô rất nhỏ, nằm bên trong quả). Theo Đông y, tử tô có vị cay, tính ấm. Quy vào 2 kinh Phế và Đại tràng; có tác dụng giáng khí bình suyễn, trừ đàm, nhuận tràng, dùng trong các trường hợp cổ họng tắc nghẽn, khó thở, ho suyễn, ngực đầy tức..

Tử tô bao: là nụ hoa Tía tô, có tính bình hòa, có tác dụng làm ra mồ hôi để giải cảm mà không gây ảnh hưởng khí, thường dùng kê thuốc cho bệnh nhân là trẻ em, người già yếu, phụ nữ đang mang thai hoặc sau khi sanh cơ thể suy nhược bị cảm lạnh, một số trường hợp xuất huyết khác.

Tô đầu: Phần rễ và phần thân già ở sát gốc, gọi là Tô đầu, cũng có tính năng tương tự như Tử tô bao. Bột gốc và rễ Tía tô phơi khô tán ra có thể cầm máu vết thương nhẹ phần mềm.

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2020

Mè đất, Trớ diện thảo, Phong oa thảo, Man mác trắng, Bạch thiệt: Leucas zeylanica (L.) R. Br

 Tên thường dùng: Mè đất, Trớ diện thảo, Phong oa thảo, Man mác trắng, Bạch thiệt


Tên khoa học: Leucas zeylanica (L.) R. Br

Tên tiếng Trung: 绉面草

Họ khoa học: thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae.

Cây mè đất

(Mô tả, hình ảnh cây mè đất, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)

Mô tả:


Cây mè đất là một cây thuốc quý, dạng cây thảo cao 20-50cm. Thân vuông, thẳng mọc đứng. Cành mọc đối, vuông. Lá mọc đối không cuống, phiến hình mũi mác, mép hơi khía răng. Cụm hoa hình cầu ở nách lá cách xa nhau. Lá bắc hình chỉ, ngắn hơn đài. Ðài hình ống, miệng đài xiên, mặt trong có lông, 10 gân, 10 răng. Tràng màu trắng thò ra ngoài ít, ống thẳng, môi trên lõm, môi dưới 3 thùy, 4 nhị, vòi ngắn, chẻ đôi. Quả bế tư, màu nâu, nhẵn.

Ra hoa quả quanh năm.

Bộ phận dùng:

Toàn cây - Herba Leucatis Zeylanicae.

Nơi sống và thu hái:

Loài phân bố ở Ấn Ðộ, Tây Á châu đến Nam Trung Quốc và Việt Nam.

Ở nước ta, cây mọc hoang thông thường dọc đường đi, các bãi đất hoang, ruộng khô vùng đồng bằng khắp nước ta. Thu hái cây vào mùa hè, mùa thu, thái ngắn, phơi khô dùng hay dùng tươi.

Thành phần hóa học

Chưa có nghiên cứu

Tác dụng dược lý

Một số nghiên cứu cho thấy chiết xuất Trichophyton có tác dụng kháng nấm, kháng khuẩn

Vị thuốc mè đất

(Tính vị, quy kinh, công dụng, liều dùng)

Tính vị, tác dụng:

Vị đắng cay, tính ấm, có mùi thơm; có tác dụng khư phong giải biểu, chỉ khái, hoá đàm.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Thường dùng để trị cảm mạo, ho, Phong nhiệt tê đau, dạ dày và ruột không thông, ho gà, đau họng, đau răng, khó tiêu, kinh nguyệt không đều, vô kinh, bệnh quáng gà, loét di động.

Liều dùng:

Liều dùng 12-25g, dạng thuốc sắc.

Tác dụng chữa bệnh của vị thuốc mè đất

Chữa mắt bị va quệt, kéo mây, đóng vảy cá:

Lấy một ít lá cây mè đất, rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cho vào một ít muối nhỏ vào mắt ngày vài lần.

Chữa loét dạ dày lâu năm:

Cây Mè đất, vỏ cây Mù u, vỏ cây Vú sữa, sao vàng, khử thổ, sắc uống.

Chữa sa dạ dày:

Cây Mè đất khô, chặt ra, sao thơm, khử thổ, mỗi lần sắc chừng hai nắm lớn, đổ xâm xấp nước, sắc còn 1/3 uống thay nước trà trong ngày.

Điều trị ho gà:

Mè đất 12g, cam thảo 9g sắc uống ngày 2-3 lần.

Tham khảo

Ứng dụng

Ở Ấn Ðộ, người ta dùng dịch lá làm thuốc trị ghẻ và bệnh ngoài da, cũng dùng trị đau đầu và cảm mạo. Ở Inđônêxia, cây cũng được dùng trị bệnh ngoài da.

Ở nước ta, nhân dân còn dùng làm thuốc trị rắn cắn, trị sa dạ dày và chữa bệnh đau mắt cho người và gia súc.