Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

cây rau Ngót

photo

Star Gooseberry, Sauropus androgynus 's fruits ...Trái của cây rau Ngót ....

Vietnamese named : rau Ngót, Bồ Ngót, Bù Ngót
Common names : STAR GOOSEBERRY, Binahian (Tag.), Chinese malunggay (Engl.), Sauropus (Engl.), Sweet leaf bush (Engl.), Sweet leaf sauropus (Engl.)
Scientist name : Saurpous androgynus ( L. ) Merr.
Family : Euphorbiaceae. Họ Thầu Dầu
Searched from :
**** BACSYTRUCTUYEN.COM
bacsytructuyen.com/vn/Rau-ngot-bo-sung-nhieu-chat-quan-tr...
Lá sau ngót có tên khoa học là Sauropus androgynus (L .) Merr, thuộc họ thầu dầu, chứa ít nhất bảy hợp chất có thể kích thích sự tổng hợp của hormone steroid (như progesterone, estradiol, testosterone, glucocorticoid) và hợp chất eikosanoid (bao gồm cả prostaglandin, prostacyclin, lipoksin, thromboxan và leukotrienes).
Các loại thức ăn
Cho đến nay có hai loại cây rau ngót, cụ thể là rau ngót đỏ và rau ngót màu xanh lá cây. Rau ngót đỏ thường mọc hoang dã.
Rau ngót xanh thường được người Việt Nam sử dụng cho nhiều mục đích trong ăn uống và y học. Lá rau ngót thường để khơi thông dòng sữa của người mẹ mới sinh, chữa vết loét, hạ sốt, và sót nhau, máu bẩn sau khi sinh...
Hiện nay, lá rau ngót đã được đưa vào thành phần dược liệu để tạo nguồn sữa cho người mẹ mới sinh. Trong thực tế, lá rau ngót chiết xuất đã được sử dụng như là một thành phần củng cố trong các thực phẩm chức năng dành cho bà mẹ cho con bú.
Việc phát triển các nghiên cứu về lá rau ngót đang được nhiều nước tiếp tục tiến hành, đặc biệt là để loại bỏ các tác động tiêu cực có thể phát sinh. Và lời khuyên của các chuyên gia là rau ngót nên được ăn ngay sau khi nấu.
Nguồn Vitamin C dồi dào
Từ góc độ dinh dưỡng, lá rau ngót có giá trị dinh dưỡng tốt, chẳng hạn như protein, canxi, chất béo, phốt pho, sắt, vitamin A, B, và C. Lá rau ngót cũng chứa một số hợp chất béo. Thưởng thức rau ngót có thể giúp bà mẹ tăng lượng sữa, điều này là do bắt nguồn từ những tác động nội tiết của các hợp chất hoá học sterols có tính chất estrogen. Rau ngót cũng chứa chất ephedrin rất tốt cho những người bị cúm.
Nguồn vitamin C trong lá rau ngót thậm chí cao hơn nhiều so với cam hoặc ổi, do đó rau ngót được các nhà khoa học biết đến như là một nguồn cung cấp vitamin C rất cao.
Vitamin C được biết đến như 1 hợp chất chính cơ thể cần thiết trong một loạt các quy trình quan trọng, từ việc sản xuất collagen (protein hình sợi để hình thành mô liên kết trong xương), vận chuyển chất béo, vận chuyển điện tử từ một số phản ứng enzyme, nướu răng siêu khỏe mạnh, điều chỉnh nồng độ cholesterol, và miễn dịch. Ngoài ra, vitamin C trong cơ thể là yếu tố cần thiết để chữa lành vết thương và cải thiện chức năng não để chúng ta đạt được cường độ làm việc tối ưu.
Ngoài ra, lá rau ngót cũng là một nguồn vitamin A là tương đối cao. Vitamin A cần thiết cho cơ thể để ngăn ngừa các bệnh về mắt, tăng trưởng tế bào, hệ miễn dịch, sinh sản, và duy trì làn da khỏe mạnh.
Lá rau ngót có một mức canxi rất tốt. Canxi là một trong những khoáng chất quan trọng nhất cần thiết cho cơ thể. Tiêu thụ canxi ít hơn nhu cầu có thể khiến bộ xương kém vững chắc và hoàn thiện, đặc biệt là bệnh loãng xương ở tuổi trẻ, thường xảy ra ở phụ nữ. Cao huyết áp cũng có thể do mức canxi trong máu thấp.
Ngoài ra để tạo thuận lợi cho việc sản xuất sữa, lá rau ngót cũng rất giàu các hợp chất có thể tăng chất lượng và số lượng tinh trùng, bao gồm cả khơi dậy tiềm năng và khả năng tình dục. Lá rau ngót có nhiều hợp chất phytochemical có tác dụng như dược liệu.
Tác động tiêu cực gây khó ngủ
Đằng sau những đặc điểm ưu việt, lá rau ngót cũng có một số nhược điểm. Ngoài việc hỗ trợ cho quá trình trao đổi chất trong cơ thể, glucocorticoid là kết quả của quá trình trao đổi chất của lá rau ngót có thể gây cản trở cho quá trình hấp thụ canxi và phốt pho, cả canxi và phốt pho có trong chính lá rau ngót cũng như trong thực phẩm khác được ăn kèm với rau ngót.
Tại Đài Loan, đã có báo cáo rằng trong những người ăn nước ép lá rau ngót (150 g) trong 2 tuần đến 7 tháng đã xảy ra tác dụng phụ như có triệu chứng khó ngủ, ăn uống kém đi và khó thở. Tuy nhiên, những triệu chứng này biến mất sau một ngày 40- 44 ngày ngừng tiêu thụ nước ép lá rau ngót.
Theo tờ Sriana, quá trình đun sôi cũng có thể làm giảm những tác động tiêu cực của lá rau ngót.
**** WIKI
vi.wikipedia.org/wiki/Rau_ng%C3%B3t
Rau ngót, bù ngót, hay bồ ngót[1] (danh pháp khoa học: Sauropus androgynus) là một loài cây bụi mọc hoang ở vùng nhiệt đới Á châu nhưng cũng được trồng làm một loại rau ăn ở một số nước.
Miêu tả
Rau ngót mọc thành bụi cây, cao đến 2 m, thân thảo, khi già cứng chuyển màu nâu. Lá cây rau ngót hình bầu dục, mọc so le; sắc lá màu lục thẫm. Khi hái ăn, thường chọn lá non. Vị rau tương tự như măng tây.
Trái ngót giống trái cà pháo nhưng kích thước nhỏ hơn.
Về mặt dinh dưỡng, rau ngót có lượng đạm cao, giàu chất vôi, nhiều sinh tố C[2] và sinh tố K.
Sử dụng
Ẩm thực Việt Nam dùng rau ngót nấu canh với thịt băm,[3] hoặc có khi chỉ nấu suông vì rau có sẵn vị ngọt.[4]
Y học dân gian dùng rau ngót để giải nhiệt, giải rượu, trừ tưa lưỡi trẻ con,[5] ngăn ngừa đái dầm,[6] hạ huyết áp.[7]
Ăn nhiều rau ngót ở dạng rau sống có thể gây bệnh nghẽn phổi như một số trường hợp dân Đài Loan dùng rau ngót đánh lấy nước để uống vài ly mỗi ngày để giảm cân. Chất papaverin alkoloit của rau ngót có thể là nguyên do

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét