Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên Khác:
Can táo, Mỹ táo, Lương táo (Danh Y Biệt Lục),
Hồng táo (Hải Sư Phương), Can xích táo (Bảo Khánh Bản Thảo Triết Trung), Quế
táo, Khư táo, Táo cao, Táo bộ, Đơn táo, Đường táo, Nhẫm táo, Tử táo, Quán táo,
Đê tao, Táo du, Ngưu đầu, Dương giác, Cẩu nha, Quyết tiết, Kê tâm, Lộc lô, Thiên
chưng táo, Phác lạc tô (Hòa Hán Dược Khảo), Giao táo (Nhật Dụng Bản Thảo), Ô
táo, Hắc táo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Nam táo (Thực Vật Bản Thảo),
Bạch bồ táo, Dương cung táo (Triết Giang Trung Y Tạp Chí), Thích Táo (Tứ Xuyên
Trung Y Tạp Chí), Táo tàu (Dược Điển Việt Nam).
Tên khoa học:
Zizyphus jujuba Mill.
Họ khoa học:
Thuộc họ Táo (Rhamnaceae).
Mô tả:
Là cây vừa hoặc cao, có thể cao đến 10m. Lá mọc so le, lá kèm thường biến
thành gai, cuống ngắn 0,5-1cm, phiến lá hình trứng dài 3-7cm, rộng 2-3,5cm, mép
có răng cưa thô, trên mặt rõ 3 gân chính, gân phụ cũng nổi rõ. Hoa nhỏ, mọc
thành tán ở kẽ lá, mỗi tán gồm 7-8 hoa. Cánh hoa mầu vàng, xanh nhạt. Quả hình
cầu hoặc hình trứng, khi còn xanh mầu nâu nhạt hoặc xanh nhạt, khi chín mầu đỏ
sẫm. Mùa hoa tháng 4-5, mùa quả tháng 7-9.
Địa lý:
Việt Nam mới di thực, hiện còn phải nhập của
Trung Quốc. Hiện nay ở miền Bắc cây đã đượùc đem trồng nhiễu nơi, đang phát
triển mạnh, phổ biển trồng bằng chiết cành vào mùa xuân, thông thường tháng 4 -
6 ra hoa, tháng 7 - 8 kết quả.
Thu hái, sơ chế:
Thu hái vào mùa thu đông, khi quả chín hái về ăn hay phơi sấy khô làm
thuốc. Quả Táo màu hồng gọi là Hồng táo. Ngoài việc thu hoạch để làm Hồng táo
bán như trên, người ta còn thu hái quả táo khi chín vàng, phơi cho héo đến
khi quả táo hơi nhăn, đem quay trong thùng có gai để châm lỗ, rồi lấy rễ con,
thân lá cây Địa hoàng sắc cho cô đặc với ít đường để ngào, rồi phơi lại cho đến
khi không dính tay thì đóng vào túi nylon đem bán. Loại chế như thế thì có màu
đen, có vị ngọt hơn Hồng táo gọi là Hắc táo.
Phần dùng làm thuốc:
Quả chín phơi khô (Eructus Zizyphi).
Mô tả dược liệu:
Quả khô biểu hiện hình viên chùy, dài chừng 18mm - 32mm, thô chừng 15 - 18mm,
bên ngoài có màu đỏ nâu hoặc nâu tím. Có trái có vết nhăn nheo rất sâu, cuối quả
có lõm vào, có vết tồn tại của cuống quả hoặc vết sẹo hình tròn, chất mềm
mà nhẹ, bên ngoài vỏ quả mỏng, nhăn rúm, chất thịt màu nâu nhạt, có dầu dẻo, hạt
quả hai đầu nhọn dài chừng 9mm - 12mm, vỏ cứng, đập ra có nhân cứng màu trắng.
Bào chế:
Bỏ nguyên quả vào sắc với thuốc hoặc chưng nhừ,
cạo lấy nạc, bỏ hạt trộn vào thuốc hoàn.
Bảo quản:
Đậy kín, tránh sâu bọ, chuột, gián.
Thành
phần hóa học:
+ Trong Táo có Stepharine,
N-Nornuciferine, Asmilobine (Irshad Khokhar, C A, 1979, 90: 83640r).
+ Betulonic
acid, Oleanoic acid, Maslinic acid, Crategolic acid,
3-O-Trans-p-Coumaroylmaslinic acid, 3-O-Cis-p-Coumaroylmaslinic acid (Akira
Yagi, et al. Chem Pharm Bull 1978, 26 (10): 3075).
+ Betulinic
acid, Alphitolic acid, 3-O-Trans-p-Coumaroylmaslinic acid,
3-O-Cis-p-Coumaroylmaslinic acid (Akira Yagi et al. Pharm Bull 1978, 26 (6):
1798).
+ Zizyphus
saponin, Jujuboside B (Okamura Nobuyuki, et al. Pharm Bull 1981, 29 (3): 676).
+ Rutin
3385mg/100g, Vitamin C 540-972mg/100g, Riboflovine, Thiamine, Carotene,
Nicotinic acid (Trung Quốc Y Học Khoa Học Viện Vệ Sinh Nghiên Cứu Sở, Thực Vật
Thành Phần Biểu, Quyển 3, Bắc Kinh Nhân Dân Vệ Sinh Xuất Bản 1983).
+ Lysine,
Aspartic acid, Asparagine, Proline, Valine, Leucine (Baek K W, et al. C A 1970,
73: 84657n).
+ Olei acid,
Sitosterol, Stigmasterol, Desmosterol (Al-Khtib, Izaldin M M et al. C A, 1988,
108: 166181h).
+ Vitamin A,
B2, C, Calcium, Phosphor, Sắt (Trung Dược Học).
Tác dụng
dược lý:
+ Cho chuột nhắt uống nước sắc Đại táo, thể
trọng tăng rõ. Qua thử nghiệm bơi cho thấy có làm tăng cơ lực. Gây độc gan thỏ
bằng Cachon tetrachloride và cho uống nước sắc Bắc Đại táo, Protid toàn phần và
Albumin huyết thanh thỏ đều tăng rõ, chứng minh rằng Đại táo có tác dụng bảo vệ
gan, tăng lực cơ và thể trọng (Trung Dược Học).
+ Thực nghiệm cũng chứng minh rằng những
bài thuốc có Táo đều làm cho chỉ số cAMP trong bạch cầu tăng cao. Táo có tác
dụng chống dị ứng (Trung Dược Học).
+ Chiết xuất chất Táo với nước nóng in
vitro có tác dụng ức chế tế bào JTC-26 sinh trưởng, hiệu suất đạt trên 90% và có
liên quan đến liều lượng, nếu lượng nhỏ không có kết quả (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Vị ngọt
tính bình (Bản Kinh).
+ Vị ngọt,
cay, nóng, hoạt, không độc (Thiên Kim Phương – Thực trị).
+ Vị ngọt,
tính ấm (Trung Dược Học).
+ Vị ngọt,
Tính ấm (Trung Dược Đại Từ Điển).
Quy kinh:
+ Vào kinh
Tỳ, phần huyết (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vào kinh
thủ Thiếu âm (Tâm), thủ Thái âm (Phế) (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vào kinh
Can, Tỳ, Thận (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
+ Vào kinh
Tỳ, Vị (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vào kinh
Tỳ và Thận (Trung Dược Học).
+ Vào kinh
Tỳ, Vị (Trung Quốc Đại Từ Điển).
Tác dụng:
+ An trung,
dưỡng Tỳ, trợ 12 kinh, bình Vị khí, thông cửu khiếu, bổ thiểu khí, hòa bách dược
(Bản Kinh).
+ Bổ trung, ích khí, cường lực, trừ
phiền muộn (Danh Y Biệt Lục).
+ Giảm độc
của vị Ô đầu (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Dưỡng
huyết, bổ Can (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
+ Nhuận Tâm
Phế, chỉ thấu (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Kiện Tỳ,
bổ huyết, an thần, điều hòa các loại thuốc (Trung Dược Học).
+ Bổ Tỳ, hòa
Vị, ích khí, sinh tân, điều doanh vệ, giải độc dược (Trung Quốc Đại Từ Điển).
Chủ trị:
+ Trị Tỳ hư,
ăn ít, tiêu lỏng, khí huyết tân dịch bất túc,, doanh vệ không điều hòa,hồi hộp,
phụ nữ tạng táo (Trung Quốc Đại Từ Điển).
+ Trị Tỳ vị
hư nhược, hư tổn, suy nhược, kiết lỵ, vinh vệ bất hòa (Trung Dược Học).
Liều dùng:
3 quả - 10 quả.
Kiêng kỵ:
+ Trái xanh
ăn không tốt, không nên ăn nhiều. Ăn táo với hành làm ngũ tạng bất hòa, ăn với
cá làm đau bụng, đau thắt lưng (Danh Y Biệt Lục).
+ Ăn nhiều
trái Táo chưa chín sẽ bị nhiệt khát, khí trướng (Thiên Kim Phương – Thực Trị).
+ Vùng dưới ngực có bỉ khối, đầy
trướng, nôn mửa: không dùng (Y Học Nhập Môn).
+ Trẻ nhỏ bị
cam tích, bụng đầy trướng, đờm nhiệt, răng đau: Cấm dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Dạ dày đau
do khí bế, trẻ nhỏ bị nhiệt cam, bụng to, đau bụng do giun: không dùng (Bản Thảo
Hối Ngôn).
+ Đang uống Nguyên sâm, Bạch vi,
không được dùng Đại táo (Bản Thảo Tỉnh Thường).
+ Trẻ nhỏ,
sản hậu, sau khi bị bệnh ôn nhiệt, thử thấp, hoàng đản, cam tích, đờm trệ: không
nên dùng (Tùy Tức Cư Ẩm Thực Phổ).
Đơn thuốc
kinh nghiệm:
+ Trị nhiệt
bệnh sau khi bi thương hàn làm khô miệng, nuốt đau, thích ngủ: Đại táo 10 quả, Ô
mai 10 quả, nghiền nát, trộn với mật làm thành viên to bằng hạt Hạnh nhân, dùng
để ngậm (Thiên Kim Phương).
+ Trị bồn
chồn không ngủ được: Đại táo 14 quả, Hành trắng 7 củ, 3 thăng nước, sắc còn 1
thăng uống (Thiên Kim Phương).
+ Trị các
loại lở loét không lành: Táo 3 thăng, sắc lấy nước rửa (Thiên Kim Phương).
+ Trị ho xốc
khí nghịch lên: Táo 20 quả, bỏ hột rồi lấy sữa tô 120g. Sắc lửa nhỏ rồi cho Đại
táo vào, đợi Táo ngấm hết sữa, lấy ra dùng. Mỗi lần ngậm một trái (Thánh Huệ
Phương).
+ Trị ăn nhiễu Hồ tiêu làm bế khí:
Táo ăn thì giải (Bách Nhất Tuyển Phương).
+ Điều hòa Vị khí: lấy Táo phơi khô,
bỏ hột đi, sấy khô, tán bột, thêm một ít bột Gừng sống, uống từng ít một (Diễn
Nghĩa Phương).
+ Trị ăn vào
mửa ra: Đại táo 1 quả, bỏ hột, dùng một con Ban miêu, bỏ đầu, cánh rồi cho vào
Táo, nướng chín, chỉ lấy Táo ăn lúc bụng đói (Trực Chỉ Phương).
+ Trị khí
thống ở tiểu trường: Táo 1 quả, bỏ hột, lấy 1 con Ban miêu, bỏ đầu và cánh đi
rồi cho vào trong thuốc, lấy giấy bao lại, đốt chín. Bỏ Ban miêu đi, lấy Táo ăn,
rồi lấy Tất trừng gìa nấu nước để uống với thuốc (Trực Chỉ Phương).
+ Trị táo
bón: Đại táo 1 trái, bỏ hạt, trộn với 2g Khinh phấn, lấy giấy ướt gói lại, nướng
chín, xong lấy nước sắc Đại táo uống (Trực Chỉ Phương).
+ Trị có
thai đau bụng: Hồng đại táo 14 quả, đốt cháy, tán bột, uống với nước tiểu (Mai
Sư Phương).
+ Trị Phế
ung, mửa ra máu do ăn thức ăn cay nóng: Hồng táo để nguyên hạt, đốt tồn tính,
Bách dược tiễn, đốt qua, hai vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 8g với nước cơm
(Tam Nhân Phương).
+ Trị điếc
tai, nghẹt mũi, mất khứu giác và âm thanh: Đại táo 15 quả, bỏ vỏ và hạt, Tỳ ma
tử 300 hạt, bỏ vỏ, gĩa nát, gói trong bông, nhét vào lỗ tai, lỗ mũi, ngày 1
lần. Trước tiên cho vào tai, sau đó mới cho vào mũi, không nên cùng làm một lúc
(Mạnh Sằn Bí Hiệu Phương).
+ Muốn thân
thể không bị mùi xú uế, hàng ngày, dùng thịt Đại táo, Quế tâm, Bạch qua nhân,
Tùng thụ bì, làm thành viên uống (Mạnh Sằn Bí Hiệu Phương).
+ Trị tầu mã
nha cam: Thịt Đại táo 1 trái, Hoàng bá. Tất cả đốt đen, tán bột, trộn dầu bôi
vào. Có thể thêm 1 ít Tỳ sương càng tốt (Bác Tễ Phương).
+ Trị đau
nhức tim đôït ngột: Ô mai 1 trái, Táo 2 trái, Hạnh nhân 7 hạt. Tán nhuyễn. Đàn
ông uống với rượu, đàn bà uống với dấm (Hải Thượng Phương).
+ Trị buồn
bực, khó ngủ: Đại táo 14 quả, Long nhãn 210g, nấu chín uống và ăn (Kinh Nghiệm
Phương).
+ Trị suy
nhược, khó ngủ: Long nhãn 40g, Mạch môn 40g, Ngưu tất, Đỗ trọng, mỗi thứ 20g,
Đương quy 40g, Xuyên khung 20g. Ngâm một lít rượu uống trước khi ngủ.
+ Trị chứng
Tạng táo (hysteria) của đàn bà: buồn thương tủi khóc như bị thần linh quở phạt,
hay ngáp: dùng 10 quả Đại táo, 1 thăng Tiểu mạch, 60g Cam thảo. Sắc uống để bổ
Tỳ khí (Đại Táo Thang – Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị tiêu
chảy lâu ngày, bụng đầy, hư hàn: Phá cố chỉ, Nhục đậu khấu. mỗi thứ 12g, Mộc
hương 6g, tán bột, trộn với Táo nhục làm thành viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần
12g. Uống với nước Gừng (Táo Nhục Hoàn - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị chứng
tiểu cầu giảm: Đại táo 40g, Bạc hà diệp 20g. Sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y
Học).
+ Trị xuất
huyết dưới da do dị ứng: Đại táo 320g, Cam thảo 40g, sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa
Trung Y Học).
+ Trị hư
phiền, mắt ngủ, tự ra mồ hôi và chứng Tạng táo (hysteria) do tinh thần thất
thường: dùng bài ‘Cam Mạch Đại Táo Thang’ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị ban
chẩn dị ứng: Dùng Hồng táo 10 quả/1 lần, ngày uống 3 lần. Hoặc dùng Táo 500g/
ngày, sắc nước uống. Đã trị khỏi 5 ca ban dị ứng đã từng trị thuốc Tây không
bớt (Thượng Hải Trung Y Dược tạp Chí 1958, 11: 29).
+ Trị ban
chẩn không do giảm tiểu cầu: Mỗi lần uống Hồng táo 10 trái, ngày 3 lần. Đã trị
16
cas (có 1 ca dùng thêm Vitamin C, K) đều khỏi (Cao Bình
và cộng sự, Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1962, 4: 22).
+ Trị hội
chứng tả lỵ lâu ngày: Dùng Hồng táo 5 trái, Đường đỏ 60g. hoặc Hồng táo, Đường
đỏ mỗi thứ 50g, sắc ăn cả nước lẫn cái, ngày 1 thang. Đã trị 8 ca được chẩn đoán
theo Đông y là Tỳ Vị hư hàn, đều khỏi hẳn (Trịnh An Hoằng, Tân trung Y Tạp Chí
1986, 6: 26). (Hoàng Cự Điền – Hồng Táo Thang Trị Nan Lỵ, Tân Trung Y Tạp Chí
1987, 6:56).
+ Tác dụng
dự phòng phản ứng truyền máu: Dùng Hồng táo 10-20 trái, Địa phu tử, Kinh giới
(sao) đều 10g, sắc đặc khoảng 30ml, uống trước lúc truyền máu 15-30 phút. Đã
dùng cho 46 lượt người truyền máu vơi trên 10.00ml máu. Kết quả: có 5 ca suy
tủy, mỗi lần truyền máu đều có phản ứng, nhưng khi dùng Táo thì không có phản
ứng rõ, trừ hai ba trường hợp phản ứng nhẹ hoặc phản ứng chậm (Lý Khởi Khiêm –
Hồng Táo Thang Phòng Phản Ứng Do Truyền Máu, Triết Giang Y Học Tạp Chí 1960,
44).
Tham Khảo
+ Đại táo
sát được độc của Ô đầu, Phụ tử, Thiên lùng (Lôi Công Đối Luận).
+ Đại táo
trị trẻ nhỏ bị lỵ vào mùa thu: Cho ăn Táo bị sâu mọt (lâu năm) rất hay (Thực
Liệu Bản Thảo).
+ Đại táo
nhuận tâm phế, trị ho, bổ hư tổn ngũ tạng, trừ tích khí ở trường Vị, hòa với
Quang phấn (đốt cháy) trị cam lỵ (Nhật Hoa Chư Gia Bản Thảo).
+ Đại táo
nuôi được tỳ khí, bổ tân dịch, mạnh thận khí, tăng trí nhớ. Nhân của quả trên 3
năm trị được chứng đau bụng, trúng phải khí độc, quặn thắt tim (Thang Dịch Bản
Thảo).
+ Tính của
Táo giúp được cả 12 kinh lạc, tà khí ở trong tâm phúc, hòa bách dược, thông cửu
khiếu, bổ khí bất túc, ăn sống làm sình bụng có khi bị tiêu chảy, khi dùng chưng
thật chín rồi phơi khô thì bổ trường vị: điều hòa trung nguyên, ích khí lực (Bản
Thảo Kinh Sơ).
6 - Đại táo
tính hòa hợp được âm dương, điều chỉnh được vinh vệ, sinh được tân dịch (Dụng
Dược Pháp Tượng).
7 - Sở dĩ
Dại táo bẩm thụ được khi xung hòa của trời đất ở hành thổ, cảm ứng được dương
khí của trời để sinh sống, nên sách Bản Kinh ghi rằng: "Đại táo có vi ngọt, tính
bình, không độc, Lý Đông Viên và Mạnh Sằn đều cho là khí vị đều hậu, vì nó là
loại thuốc vào kinh túc Thái âm, túc Dương minh". Sách Nội Kinh cho rằng: "Những
người bất túc chân nguyên phải nên dùng những vi ngọt để bổ túc vào đó, vì hình
thể bất túc nên dùng vị thuốc ấm để giúp cho khí đó". Vì ngọt bổ được trung
nguyên, ấm thì ích được khí nên những vi ngọt, ấm hay bổ được Tỳ Vị mà có thể
sinh tân dịch nữa. Nếu thỏa mãn được những điều kiện như thế thì trong 12 kinh
mạch tự nhiên nó thông lợi cả cửu khiếu nữa, tay chân điều hòa và thông sướng
cả. Khi chính khí đã đầy đủ thì thần hồn được yên ổn, cho nên khi ở tâm phúc có
tà khí hoặc gặp việc quá sợ sệt, nếu như giúp cho bên trong được hòa hoãn thì sự
buồn phiền phải lui, nên những chứng như co thắt tim hoặc có cảm giác vặn ngược
lên trên, những người khí thiếu, hễ mà Tỳ kinh được bổ thì khí lực mạnh lại được
ngay. Cho nên trường vị cần phải được thanh, có khi chính vì nó mà làm cho cơ
thể bất túc mà sinh ra chứng trường tích. Đại táo vì có vị ngọt nên hay giải
được độc, hòa được các vị thuốc, làm cho tỳ vị sung túc. Về mặt năng lực của hậu
thiên thì nó có thể giúp một phần trong việc dinh dưỡng, cho nên sách xưa mới
nói rằng: "Dùng nó lâu thì nhẹ nhàng thân thể, sống lâu, nhẹ nhàng như thần
tiên, không đói. Đó là ý nói đến những người tu tiên, luyện tịch cốc, người
thường chưa chắc được như vậy (Bản Thảo Kinh Sơ).
8 - Đại táo
vi ngọt, là vị thuốc củaTỳ kinh, có tác dụng bổ tỳ, ích khí, nhuận phế, làm cho
giảm ho, sát được độc của Phụ tử. Ngày xưa, Trương Trọng Cảnh trị chứng bôn đồn,
dùng Đại táo với dụng ý giúp cho Tỳ thổ, dùng nó với mục đích bình thận khí. Trị
đau tức cạnh sườn do thủy ẩm sinh ra thì dùng bài ‘Thập Táo Thang’ ý là giúp cho
Tỳ thổ để thắng thận thủy, cho nên Đại táo tính của nó điều hòa được tạng phủ,
là vị thuốc chính để hòa được cả trăm thứ thuốc vậy. Nhưng không nên dùng nhiều
quá sẽ bị hại răng (Bản Thảo Đồ Giải).
9- Dùng táo
đâ chưng rồi mới phơi khô thì tính nó ngọt, ấm, bổ Tỳ, tráng Vị, tư vinh vệ,
nhuận phế, an thần, ăn lâu không đói, ngâm rượu uống. Nó sát đượ' độc của Phụ
tủ, Ô đâàu, Thiên hùng, Xuyên tiêu (Tùy Tức Cư Ẩm Thực).
10- Phương
Bắc sinh ra táo lớn mà quả cứng, thịt dầy, sức bổ tương đối rất mạnh gọi là
‘Giao táo’ cũng gọi tên khác là "Hắc đại táo". Táo màu đỏ gọi là "Hồng táo" có
khí thơm, vị thanh tao, có tác dụng khai vị, dưỡng tâm, bổ tỳ huyết (Tùy Tức Cư
Ẩm Thực).
11- Đại táo
vị ngọt, tính bình, khi mới sinh ra thì hoa trắng nhỏ, quả sống màu xanh, khi
chín màu vàng, khi chín lắm thì thành màu đỏ, phơi khô thì lại màu đen. Nó bẩm
thụ được tinh hoa của khí đất trời, nên có đủ sắc của ngũ hành (Bản Thảo Sùng
Nguyên).
12- Đại táo
bẩm thụ được khí của mùa thu là khí của hành kim, nó nhập vào khí vị của hành
Thổ, thu được chính khí trong đất nhập vào kinh Tỳ, khí vị của nó thăng nhiều
hơn giáng vì nó thuộc dương (Bản Thảo Kinh Giải).
13- Đại táo
bổ tỳ, nhưng không nên dùng quá nhiều, dùng nhiều thì lý mắc bệnh, vì tỳ phải
phù hợp cả 4 khí, chẳng lẽ nó chỉ giữ được cái vị ngọt
đó
sao? Vả lại ngọt là chủ ngũ vị, mỗi thứ thuốc đều có vị ngọt rồi, nên phải tùy
nghi, nghĩa là phải có những vị thuốc dẫn đạo vào các kinh thì nó mới hay được
(Dụng Dược Tượng Pháp).
14- Đại táo
dùng vào những thuốc tễ, làm tán, có tác dụng an trung, dưỡng tỳ, bình vị, dùng
làm những tễ thuốc bổ có tác dụng trợ kinh khí, trừ tà khí để điều hòa các vị
thuốc (Bản Thảo Sơ Chứng).
15- Đại táo
bổ tỳ thổ, vì nó có tính bổ huyết, hòa khí nhưng Nhân sâm cũng bổ Tỳ thổ mà nó
có tính bổ khí để sinh huyết (Ngọc Thu Dược Giải).
16- Tại sao
phải thêm Táo và Gừng sống vào thang thuốc sắc? Cổ nhân khi làm thuốc mỗi thang
đều phải có thêm Táo và Gừng vào, là có ý thận trọng trong
việc giữ gìn Vị khí, tuy nhiên, có nơi nên dùng, có nơi kiêng cữ khác nhau.
Nếu bổ Tỳ Vị thì nên dùng Gừng và Táo. Làm ấm trung tiêu thì nên dùng Gừng lùi.
Thuiốc bổ khí thì chỉ dùng Gừng. Thuốc phát biểu thì dùng Gừng sống. Thuốc bổ
âm, thuốc vào phần huyết thì không nên dùng Gừng, thuốc trị bệnh ở hạ tiêu thì
cứ dùng Gừng, Táo. Thuốc trị bệnh về khí, không nên dùng Gừng (Dược Phẩm Vậng
Yếu).
17- Đại táo
có tính ấm, bổ được bất túc, có vị ngọt nên hoãn được âm huyết. Tà ở phần Vinh,
Vệ thì dùng Gừng và Táo vì cay ngọt có tác dụng phát tán, để hòa vinh vệ, vì vậy
dùng bài Quế Chi Thang, Tiểu Sài Hồ Thang để trị. Trong bụng đầy trướng thì cấm
ăn, vì vậy trong bài Kiến Trung Thang, Trương Trọng Cảnh trị đầy tức dưới tim đã
bỏ không dùng Táo. Trong cổ phương, người xưa dùng Đại táo cùng với Tiểu mạch,
Cam thảo để trị phụ nữ bị chứng tạng táo, vui buồn, khóc cười không rõ lý do.
Thang Quy Tỳ phối hợp với Bạch truật để trị hồi hộp, hay quên. Cho nên các sách
xưa cho rằng Đại táo có thể an trung, dưỡng Tỳ khí và lại có thể làm cho mạnh
tâm thần, đó là cách dùng Đại táo có tính sâu xa vậy (Trung Dược Học Giảng
Nghĩa)