Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Cây ngọt nghẽo-Gloriosa superba L., (G.simphex Don.).

Tên khoa học Gloriosa superba L., (G.simphex Don.).
Thuộc họ hành tỏi Liliaceae.
Cây ngọt nghẽo là một nguồn conchixin ở nước ta và những nước nhiệt đới khác, đồng thời là một cây làm cảnh vì hoa rất đẹp.
Cây ngọt nghẽo có tác dụng diệt chấy và các ký sinh trùng ở tóc
Cây ngọt nghẽo có tác dụng diệt chấy và các ký sinh trùng ở tóc
Mô tả cây
Cây ngọt nghẹo là một cây sống lâu  do thân rễ gồm một chuỗi củ mẫm, hình cung, từ những nơi nhô lên mọc các thân rễ cao tới 3 - 6m, nhẵn mềm, phía đỉnh có cạnh. Lá mọc so le, hay mọc đối, đôi khi mọc vòng, không cuống hay cuống ngắn, phiến lá hình mác trên đầu tận cùng bằng một tua cuộn lại hình xoắn ốc, toàn bộ dài 7 - 12cm, rộng 2 - 3cm, gân dọc rất sít nhau. Hoa mọc đơn độc hoặc gần nhau thành ngù giả ở đầu cành, hoa to rất đẹp, cuống dài 10 - 15cm. Hình chùy dài 5 - 6cm chứa nhiều hạt khi chín có màu đỏ tươi. Mùa hoa tháng 5 - 6. mùa quả tháng 6 - 8.
Phân bố thu hái và chế biến
Theo tài liệu cây này đựơc phát hiện tại nhiều nơi ở miền Nam nước ta, nơi có nhiều ánh sáng: Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Quảng Trị. Tại miền Bắc cho đến nay chúng ta chưa thấy. Năm 1967, chúng tôi đã xin được giống  (hạt và thân rễ) từ Liên Xô cũ về để trồng thí nghiệm và đã theo dõi trong khoảng thời gian từ tháng 8/1967 tới 5/1976 (Đỗ Tất Lợi). Hàng năm cây mọc tốt, năm 1968 bắt đầu ra hoa và kết quả bình thường.
Còn mọc ở Ấn Độ, Miến Điện, Malaysia, Phi châu, Thái Lan, Indonesia.
Cho đến nay chưa thấy ai dùng cây này làm thuốc, ở nước ta  chỉ thấy ghi rằng thân rễ rất độc.
Thân rễ gồm 2 củ dính nhau thành hình thước thợ, một củ nhỏ hơn, thân rễ thường dài 15 - 20cm, đường kính 2  - 2,5cm. Khi tươi củ mẫm, ngọt, trên mặt phủ một lớp vỏ màu nâu nhạt, dưới lớp vỏ là một lớp màu vàng nhạt như sáp, điểm những đốm màu vàng sẫm. Phía trong màu trắng gồm những tế bào chứa tinh bột. Dịch thân rễ nhầy, hơi đắng, trong những thân rễ lâu năm tinh bột ít đi. Sấy khô trông dáng tinh bột, nhưng sau khi đồ rồi mới phơi thì vết bẻ trong cứng.
Công dụng và liều dùng
Như trên đã nói chúng tôi chưa thấy nhân dân ta dùng cây này làm thuốc. Sở dĩ giới thiệu ở đây là vì đây là một nguồn conchixin có thể dễ trồng và dễ kiếm ở nước ta, thay cho việc trồng cây Colchicum autumnale (tỏi độc) vừa khó uống, vừa hiệu suất thấp.
Theo Chopra và Badhwar (1940 Ind J. Agric Svi., 1041) tại Ấn Độ thân rễ thường được dùng để tự tử hoặc để gây sảy thai dịch chiết từ lá dùng diệt chấy.
Cũng theo tài liệu Ấn Độ, người ta dùng thân rễ tươi giã nát đắp lên phía trên mu âm hộ để giúp cho dễ đẻ, hoặc để cho nhau chóng ra. Có khi người ta chỉ đắp lên trên gan bàn tay, bàn chân cũng có kết quả.
Cần chú ý nghiên cứu.
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)

của GS. ĐỖ TẤT LỢI

Ngót nghẻo
Ngót nghẻo, Ngắc nghẻo - Gloriosa superba L., thuộc họ Tỏi độc - Melanthiaceae.
Mô tả: Cây mọc ở đất, có thân bò, leo cao 1-1,5m nhờ đầu lá biến thành vòi quấn, láng, trắng hay vàng. Hoa to, dẹp, đính cạnh các lá ở ngọn. Đài và tràng như nhau, vàng ở gốc, đỏ ở đầu lúc mới nở, rồi đỏ đậm, mép nhăn nheo. Nhị to, chỉ nhị đỏ, vòi nhuỵ ngang. Quả nang dài 4-5cm, có 3 ô, mở vách.
Mùa hoa tháng 5-11.
Bộ phận dùng: Củ, lá - Tuber et Folium Gloriosae.
Nơi sống và thu hái: Loài cổ nhiệt đới, thường mọc ở các đồng cát dựa biển và trên các đất trống, trảng nắng ở các tỉnh Nam Trung bộ Việt Nam. Cũng được trồng ở nhiều nơi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long làm cây cảnh vì hoa đẹp. Thu hái củ và lá quanh năm, dùng tươi hoặc chế bột củ.
Thành phần hoá học: Củ chứa alcaloid colchicin (0,3%), gloriosin, acid tannic, tinh bột, đường khử. Trong lá có colchicin, dimethylcolchicin, N-formyldeacetylcolchicin và lumicolchicin và hai alcaloid khác có liên quan.
Tính vị, tác dụng: Vị rất đắng, củ rất độc, có tác dụng xổ, lợi mật, trừ giun. Nó có tính kích thích dạ dày ruột nên có thể gây nôn và xổ, nước chiết củ có tính kháng khuẩn đối với Staphylococcus aureus.
Công dụng: Ở Ấn Độ, người ta dùng rễ trị bệnh phong, các bệnh về da, trĩ, đau bụng, rắn cắn và bò cạp đốt. Người ta còn dùng bột củ tươi làm thuốc đắp vào vùng bụng dưới kích thích sự đau đẻ và như là thuốc gây sẩy thai. Tinh bột thu được khi ngâm rửa củ dùng uống trong làm thuốc dịu để trị bệnh lậu.
Dịch lá dùng để diệt chấy và các vật ký sinh ở tóc.
Thường dùng dưới dạng thuốc đắp. Liều uống trong không được quá 0,5 g mỗi ngày.
Ở nước ta, có người dùng lá giã ra trị ghẻ khoét (ghẻ ăn miệng như nồi vôi), nhưng có thể trồng để chiết chất colchicin thay vì phải trồng loài Tỏi độc - Colchicum autumnale phải nhập.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét