Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

Rau rừng Việt Nam





    1. Nấm bào ngư

      NẤM BÀO NGƯ


      Nấm bào ngư trắng
      -Tên gọi khác: Nấm sònấm sò xám, nấm hương chân ngắn, nấm trắng, nấm dai…
      -Tên tiếng Anh: Oyster mushroom, Tree Oyster mushroom, Straw mushroom.
      -Tên khoa học: Pleurotus ostreatus (Jacq. ex Fr.P.Kumm. 1871
      -Các phân loài: P. cystidiosus (nấm bào ngư) - Toàn cầu.
                                 P. abalonus - (nấm bào ngư)-Đài Loan.
                                 P. fuscosquamulosus - (nấm bào ngư) Châu Phi, Châu Âu.
                                 P. smithii - (nấm bào ngư) Mexico.

      Phân loại khoa học


      Giới (regnum):Nấm (Fungi)
      Ngành (phylum):Nấm đảm (Basidiomycota)
      Lớp (class):Nấm tản (Agaricomycetes)
      Bộ (ordo):Nấm tản (Agaricales)
      Họ (familia):Nấm bào ngư (Pleurotaceae)
      Chi (genus):Nấm bào ngư (Pleurotus)
      Loài (species):Pleurotus ostreatus
      Chi nấm bào ngư hay nấm sò (Pleurotus) là một Chi nấn lớm bao gồm nhiều loài nấm ăn được, trong đó điển hình là nấm Bào ngư P.ostreatus
      Pleurotus có nghĩa là "tai bên", từ tiếng Hy Lạp ( pleurē ) = "mặt"  +(ōtos ) = "tai".
      Ở Việt Nam nấm bào ngư còn tên gọi là nấm hương chân ngắn, nấm sò xám, nấm trắng, nấm dai…
      Việc phân loại các loài trong Chi Pleurotus là khó khăn do sự biến đổi kiểu hình cao trên phạm vi địa lý rộng, với sự chồng chéo của các loài trong một vùng địa lý, và sự tiến hóa liên tục và sự biệt hóa . 
      Chi Nấm Sò Pleurotus gồm các loài sau:
      I. P. ostreatus (Nấm sò, nấm sò ngọc trai) - Bắc Mỹ và Bắc Âu Á. (có 1 loài phụ)
      P. florida
      II. P. pulmonarius (Nấm phượng hoàng hay nấm sò Ấn Độ) - Bắc Mỹ, Âu Á, và Châu Úc. (có 2 loài phụ).
      P. columbinus 
      P. sapidus
      III. P. populinus - Bắc Mỹ.
      IV. P. cornucopiae (nhánh nấm sò) - Châu Âu (có 2 loài phụ).
      P. citrinopileatus (nấm sò vàng) - Đông Á
      P. euosmus (nấm hàu ngải giấm)
      V. P. djamor (nấm sò màu hồng) – pantropical (có 3loài phụ).
      P. flabellatus
      P. salmoneo-stramineus
      P. salmonicolor
      VI. P. eryngii (nấm sò vua) - Châu Âu và Trung Đông. (có 3 loài phụ)
      P. ferulae
      P. fossulatus – Afghanistan.
      VII. P. cystidiosus (nấm bào ngư) - Toàn cầu (Có 3 loài phụ).
      P. abalonus - Đài Loan.
      P. fuscosquamulosus - Châu Phi, Châu Âu.
      P. smithii
      VIII. P. levis - cận nhiệt đới và vùng nhiệt đới.
      IX. P. dryinus - Bắc Mỹ, Châu Âu, và New Zealand.
      X. P. củ-regium (vua nấm củ) - Châu Phi, Châu Á, Úc.
      XI. P. opuntiae - Bắc Mỹ, New Zealand.
      XII. P. abieticola - Châu Á.
      XIII. P. albidus - Caribbean, Trung Mỹ, Nam Mỹ.
      XIV. P. australis nấm sò (màu nâu) - Australia và New Zealand.
      XV. P. purpureo-olivaceus - Australia và New Zealand. (có 2 phân loài).
      XVI. P. calyptratus
      Các loài tương cận có mối quan hệ không rõ ràng
      P. parsonsii 
      P. velatus 

      Phân bố

      Chi nấm bào ngư hay nấm sò (Pleurotus) được tìm thấy trong vùng khí hậu nhiệt đới và ôn đới trên toàn thế giới. Hầu hết các loài nấm Pleurotus sống hoang dại trên thân cây gổ đã chết còn cứng hay trên gổ cây tùng đã hoai mục.
      Nấm bào ngư Nhật
      Nấm sò là phổ biến rộng rãi trong các khu rừng ôn đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, mặc dù nó là vắng mặt từ  Tây Bắc Thái Bình Dương của Bắc Mỹ , được thay thế bởi P.pulmonarius và P. populinus . 
      Đặc biệt loài nấm bào ngư Nhật (P. eryngii ) có mối liên kết với các loại cây thân cỏ , và nấm củ (P. regium) sản xuất ngầm hạch nấm ngầm .Ngoài ra tất cả các loài nấm sò Pleurotus cũng tiêu diệt tuyến trùng và giun tròn (nematophagous) , bằng cách làm tê liệt chúng với chất độc.
      Nấm bào ngư được trồng rộng rãi và được sử dụng ở Kerala , Ấn Độ , nơi có nhiều món ăn được chuẩn bị từ nấm. Ngoài thu hái trong tự nhiên, hiện nay nấm bào ngư chủ yếu được trồng trong các túi nhựa với nguyên liệu là mạt cưa, bột gổ, rơm, rạ...
      Hiện nay rất nhiều nước trên thế giới mở rộng công nghệ trồng nấm bào ngư vì đây là những loài nấm có giá trị dinh dưỡng cao, dể trồng và sản phẩm đẹp phù hợp với các siêu thị.

      Mô tả

      Nấm bào ngư Pleurotus, thường mọc hoang trên thân gỗ, mọc đơn độc hay mọc chồng lên nhau và có nhiều loại khác về màu, hình dạng, ít bệnh, dễ trồng. Nấm có dạng hình phễu lệch, thân có 3 phần gồm mũ, phiến và cuống nấm.
      Các mũ có thể được gắn theo chiều ngang (không có gốc). Nếu có gốc, nó là bình thường và mang các tai nấm (decurrent) dọc theo nó. Thuật ngữ pleurotoid được sử dụng cho các nấm có hình dạng chung này.
      Các bào tử có dạng trơn tru và kéo dài (được mô tả là "trụ"). Trường hợp sợi nấm đáp ứng, họ được tham gia kết nối kẹp. Loài nấm sò Pleurotus không được coi là một loại nấm khung , và hầu hết các loài mọc đơn (monomitic) với một tai nấm mềm. Tuy nhiên trong môi trường khô hạn cây nấm có thể mọc đôi (dimitic) , có nghĩa là nó có thêm sợi nấm phụ giống như dạng nấm khung.
      Nấm có tai rộng hình nắp vỏ sò, dài từ 5-25 cm, tùy loài có màu sắc thay đổi từ màu trắng kem đến trắng xám, xám, nâu…

      Giá trị dinh dưỡng

      Nấm bào ngư là loại nấm giàu dinh dưỡng và dược tính nên được gây trồng trên rơm rạ, bã mía, mùn cưa… để làm thực phẩm và làm thuốc trị bệnh.
      Thành phần có trong nấm bào ngư tươi gồm:
      -Protide 4%.
      -Glucide 3,4%.
      -Vitamine C, vitamine PP, acide folic..
      -Các acide béo không no…
      Khi nấm bào ngư dưới dạng sinh khối khô, hàm lượng proteine chiếm tới 33 – 43%, ngoài ra còn thấy các acide amine như glutamic, valin, isoleucin… tuy nhiên cũng chứa một hàm lượng rất nhỏ chất arabitol nên khi ăn vào có thể gây khó chịu trong đường tiêu hóa ở một số cá nhân.

      Công dụng của nấm bào ngư

      Nấm bào ngư là loại rau sạch có dinh dưỡng cao

      Các loại nấm bào ngư (nấm sò) là thứ thực phẩm rất tiện ích cho cuộc sống con người, dễ nuôi trồng và hoàn toàn có lợi về vấn đề môi trường. Đặc biệt, nấm còn vừa là "rau sạch" và vừa là "thịt sạch".Có thể nói nấm là nguồn thực phẩm chức năng của thế kỉ 21.
      Khí hậu mát mẻ quanh năm là điều kiện rất thích hợp cho Nấm Bào Ngư phát triển tự nhiên, không sâu bệnh, nấm gây hại.
      Nấm bào ngư thường được sử dụng trong nấu ăn ở Nhật Bản , Hàn Quốc và Trung Quốc như 1 món ăn thường xuyên phục vụ riêng của mình, trong súp, nhồi, hoặc trong các công thức nấu ăn xào với nước tương . Nấm Oyster đôi khi làm thành nước sốt, được sử dụng trong nấu ăn ở Châu Á, tương tự như dầu hào . Hương vị của nấm đã được mô tả như là một nhẹ với mùi nhẹ tương tự như hồi .Nấm sò là tốt nhất khi còn non, khi nấm già thịt trở nên cứng rắn và hương vị trở nên chát và khó chịu.
      Nấm bào ngư là nguồn thực phẩm cao cấp được dùng để nấu nhiều món ăn khác nhau như xào, hầm với nhiều thực phẩm khác làm tăng hương vị và tăng chất bổ dưỡng. Các món ăn nấu với nấm bào ngư vừa là thức ăn ngon vừa là bài thuốc phòng trị nhiều bệnh tật.
      Điển hình là món cháo thịt thăn, nấm bào ngư, vừa ngon vừ có tác dụng phòng và trị bệnh:
      Nguyên liệu: Nấm bào ngư 200g (ngâm trong nước muối loãng, rửa sạch vớt ra, thái mỏng), gạo tẻ ngon 20g, thịt nạc thăn thái nhỏ, bỏ những mỡ bám và băm nhuyễn 100g, hành, ngò, tiêu, gia vị, nước mắm, bột nêm, bột ngọt, dầu vừa đủ. Dùng cho 2 người ăn trong một bữa.
      Cách làm: Ướp thịt với nước mắm ngon cùng hành, tiêu và bột nêm. Gạo tẻ đãi sạch cho vào nồi nấu nhừ thành cháo. Lấy chảo để nóng cho dầu ăn phi hành thơm cho thịt nạc thăn đã băm nhuyễn vào xào qua cho thịt vừa chín tới thì đổ thịt vào nồi cháo. Tiếp theo cho nấm vào nấu sôi thêm 10 phút, nêm đủ hành ngò, gia vị, bột ngọt vừa đủ đảo đều, bắc xuống luôn.
      Với nấm sấy khô: Rửa sạch trụng qua nước sôi 1-2 phút để chế biến như nấm tươi.

      Nấm bào ngư được dùng làm thuốc

      Đông y cho rằng nấm bào ngư có vị ngọt, tính ấm, công năng tán hàn và thư cân.
      Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn có nhiều đặc tính của biệt dược, có khả năng phòng và chữa các bệnh như làm hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu...; và đặc biệt là đã có một số công trình nghiên cứu còn cho rằng nấm bào ngư còn có khả năng chống bệnh ung thư (hướng nghiên cứu này sẽ được tiếp tục làm sáng tỏ trong tương lai).
      Tác dụng chống ung thư của nấm bào ngư do sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung ở phiến nấm và đặc biệt ở bào tử nấm. Nấm sò là một trong những thường tìm nấm hoang dã, mặc dù nó cũng có thể được trồng trên rơm rạ và các loại vật liệu khác. Nó thường có hương thơm của hồi do sự hiện diện của benzaldehyde.
      Với các kết quả nghiên cứu dược lý người ta cho biết trong nấm bào ngư có chất pleutorin có công hiệu kháng khuẩn gram dương và kháng cả tế bào ung thư… Các nghiên cứu khác có tác dụng làm giảm thiểu đối với cholesterol và đường máu cho kết quả khả quan.
      Trong tự nhiên nấm bào ngư có tiết ra chất kháng tuyến trùng và giun tròn. Do đó khi ăn nấm bào ngư còn có tác dụng phòng ngừa giun, sán rất tốt.
      Các bài thuốc từ nấm bào ngư
      1-Trị mỡ máu, tiểu đường: Nấm bào ngư 100 – 200g, nấu lấy nước uống hằng ngày. (theo Bác sĩ Hoàng Xuân Đại).
      2-Tây y: Nghiên cứu cho thấy trong nấm bào ngư có chức đến 2,8% chất lovastatin so với trọng lượng khô. Người ta chiết xuất chất này để chế ra thực phẩm chức năng và chế thuốc làm giảm cholesterol.
    2. Nấm hương (Đông cô)

      NẤM HƯƠNG


      -Tên gọi khác: Nấm đông cô,
      -Tên tiếng Anh: Chinese black mushroom black forest mushroom , black mushroom, golden oak mushroom, oakwood mushroom.
      -Tên khoa học: Lentinula edodes (Berk.) Pegler
      -Tên đồng nghĩa: Lentinus edodes Agaricus edodes

       

      Phân loại thực vật
      Giới (regnum):Nấm (Fungi).
      Ngành (phylum):Nấm đảm (Basidiomycota).
      Lớp (class):Nấm đồng đảm (Homobasidiomycetes).
      Bộ (ordo):Nấm tán (Agaricales).
      Họ (familia):Nấm hương (Pleurotaceae).
      Chi (genus):Nấm hương (Lentinula).
      Loài (species):Lentinula edodes
      Các loài tương cận
      -Nấm hương chân ngắn (Pleurotus ostreatus) ăn được.
      -Nấm dai hay nấm sâu (Lentinus tigrinus) ăn được.

      Phân bố

      Nấm hương hay còn gọi là nấm đông cô (Lentinula edodes) là một loại nấm ăn có nguồc gốc bản địa ở Đông Á. Hiện nay loài nấm hương phân bố rộng ở Châu Á.
      Loài thực nấm này mọc hoang nhiều ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan. Ở Mỹ, nông dân trồng nấm hương tại các trang trại. Mỗi khúc gỗ có thể cho nấm ký sinh 3-7 năm.
      Ở Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc nấm hương được khai thác để làm thức ăn và dược liệu từ trước Công nguyên và đã biết trồng nấm hương hơn 1.000 năm trước. Văn bản ghi chép về nấm hương đầu tiên ở Nhật Bản khoảng 199 năm trước Công nguyên và văn bản mô tả kỹ thuật trồng nấm hương để làm rau và dược liệu ở Trung Quốc do Wu Sang Kwuang dưới triều đại nhà Minh (1368-1644) cho biết loài nấm này dùng để trị các bệnh đường hô hấp trên, lưu thông máu kém, yếu gan, kiệt sức và yếu ớt, và để tăng cường sinh lực, ngăn chặn lão hóa sớm.
      Ở Việt Nam nấm hương mọc hoang nhiều trên thân gổ lớn ở các vùng rừng núi như ở Tuyên Quang, Hòa Bình, Thái Nguyên, Cao Bằng… trên các loại cây Dẻ đá, Dẻ đỏ, Sồi bộp, Re đỏ, máu chó…

      Mô tả

      Nấm hương có dạng như cái ô, đường kính 4-10 cm, màu nâu nhạt, khi chín chuyển thành nâu sậm. Nấm hương có một chân đính vào giữa tai nấm. Mặt trên tai nấm màu nâu, mặt dưới có nhiều bản mỏng xếp lại.Trên mặt nấm có những vảy nhỏ màu trắng. Thịt nấm màu trắng, cuống hình trụ. Nấm mọc ký sinh trên những cây có lá to và thay lá mỗi mùa như dẻ, sồi, phong.

      Thành phần hóa học

      Theo tài liệu phân tích ở Nhật Bản, trong 100 g nấm hương khô có: đường 0,8 g; chất xơ 37,7 g; chất béo 2,1 g; chất đạm 17 g; chất sắt 10,4 mg; chất Kali 0,01 mg. Vitamin B1 1,0 mg; Vitamin B2 1,0 mg; Vitamin B3 100 mg; Vitamin B5 5,2 mg; Vitamin D 46.000 đơn vị. Ngoài ra có nhiều khoáng chất như Ca, Mg,…
      Nấm hương chứa khá nhiều đạm và đặc biệt giàu khoáng chất, vitamin và a xít amin. Nó có khoảng 30 enzym và tất cả các acid amin thiết yếu cho cơ thể. Nấm cũng có một số alcool hữu cơ mà khi nấu chín, các alcool này biến đổi, tạo thành mùi thơm đặc biệt của nó.
      Các nhà khoa học đã chiết xuất được chất Lentinan và Lentinula Edodes mycelium (LEM) từ nấm hương. Đây là 2 chất chính tạo nên tác dụng dược lý của loại nấm này. Một nghiên cứu tại Nhật cho thấy, những bệnh nhân ung thư đang hóa trị nếu dùng thêm Lentinan thì hiệu quả hóa trị sẽ tăng lên, khả năng sống sót cao hơn và sự tiến triển của ung thư sẽ bị kìm hãm. Vì vậy ở Nhật, Lentinan đã được chấp nhận như một liệu pháp phụ trợ trong tiến trình dùng hóa trị liệu.

      Công dụng

      a- Nấm hương được dùng như rau gia vị cao cấp

      1-Nấm hương tươi dùng để xào, nấu: Nấm hương tươi được dùng như gia vị để xào nấu nhiều món ăn.
      2-Nấm hương tươi dùng để nấu lẩu: Nấm hương tươi dùng để nấu lẩu ngọt rất ngon và bổ.
      3-Nấm hương phơi sấy khô làm rau gia vị: Nấm hương phơi, sấy khô dùng để xào, nấu các món ăn tăng thêm hương vị và bổ dưỡng.

      b- Nấm hương dùng làm thuốc:

      Theo y học cổ truyền Việt Nam, nấm hương có vị ngọt, mùi thơm, tính bình, có tác dụng bổ tỳ, ích khí, dưỡng huyết, chống viêm, chữa cơ thể suy nhược, chứng chân tay tê bại, tổn thương huyết quản, chảy máu chân răng. Liều dùng hàng ngày là 6 - 8g dưới dạng thuốc sắc.
      Ở Trung Quốc, người ta còn cho rằng ăn nấm hương có thể nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể chống ngộ độc thức ăn, giảm béo, chữa bệnh đái tháo đường, suy nhược thần kinh, lao phổi, viêm gan, gan nhiễm mỡ, béo phì. Do đó, ở những nước này, người ta khuyên nhân dân thường xuyên ăn nấm hương để bồi bổ sức khỏe, tăng cường thể lực và chống đỡ bệnh tật.
      Theo y học hiện đại nấm hương có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, ức chế tế bào ung thư, hạ huyết áp, giảm cholesterol máu, phòng ngừa sỏi thận và sỏi tiết niệu, trợ giúp tiêu hoá... Vì vậy đây được coi là thực phẩm tốt cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, trẻ em suy dinh dưỡng...
      Những nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết có thể triệt được bệnh ung thư ở những người mới mắc nhờ ăn nấm hương đều đặn hằng ngày. Đối với những trường hợp bị ung thư đã được giải quyết bằng phẫu thuật, nếu dùng nấm hương đều đặn sẽ tránh được di căn. 
      Các nhà khoa học đã chứng minh nấm hương có các tác dụng quý sau:
      -Tác dụng diệt khuẩn: Các nhà khoa học Mỹ và Nhật Bản đã chứng minh chất lenti-nan trong nấm hương có khả năng kháng khuẩn, kháng vi rút, kháng nấm bệnh và ký sinh trùng. Đặc biệt lenti-nan làm giảm mạnh sự suy sụp khi trị liệu hoá chất cho chuột gây lao phổi thực nghiệm, chống lại sự xâm nhiễm của vi rút viêm não VSV, vi rút Abelson, Schistosoma man - soni và S.japonicum, chống bội nhiễm khuẩn ở các bệnh nhân AIDS.
      -Điều chế dược phẩm chống ung thư: Các công ty của Nhật Bản như Ajinomoto, Yamanouchi đã từ sợi nấm hương bào chế ra lentinan như là một dược phẩm chống ung thư, đặc biệt trong điều trị ung thư dạ dày cho hiệu quả cao.
      Lentinan tiêm với liều 25mg/kg trong 10 ngày liên tục, làm ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư. Dùng liều cao, các tế bào ung thư hoàn toàn bị hủy diệt. Thuốc đã được một số nước dùng chống ung thư, đặc biệt là ung thư dạ dày.
      Qua kiểm tra chất lentinan có hoạt tính chống ung thư có kết quả và hầu như không có tác dụng phụ, do đó được áp dụng như một trị liệu pháp có hiệu quả cao cho các bệnh nhân ung thư. Ngay cả trong những trường hợp ung thư đường dạ dày - ruột đến giai đoạn 3, kết quả vẫn rất khả quan.
      -Điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạ lượng cholesterol: Các nhà khoa học đã chứng minh nấm hương có khả năng điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạ lượng cholesterol, triglycerid và beta-lipoprotein trong huyết thanh, vì vậy có tác dụng điều tiết công năng tim mạch, làm tăng lưu lượng máu động mạch vành, hạ thấp oxy tiêu thụ và cải thiện tình trạng thiếu máu cơ tim. Chất Lentysin chiết được từ nấm bằng đường uống với liều 150 - 300mg/kg sau 15 tuần, hàm lượng friglycerid, phospholipid, lipid toàn phần trong máu đều giảm. Chính vì vậy, nấm hương được sử dụng để điều trị các bệnh về tim mạch.
      -Giải độc và bảo vệ tế bào gan: Kết quả nghiên cứu cho thấy nấm hương có khả năng làm giảm thiểu tác hại của các chất như carbon tetrachlorid, thioacetamide và prednisone đối với tế bào gan, làm tăng hàm lượng glucogen trong gan và hạ thấp men gan. Nấm hương có tác dụng giải độc và bảo vệ tế bào gan rất tốt.
      -Bổ sung Vitamin D2: Y học hiện đại coi nấm hương như một nguồn bổ sung đáng kể lượng vitamin D2 để phòng và chống bệnh còi xương, trị chứng thiếu máu. Đó là do chất ergosterol có trong nấm hương, dưới tác dụng của tia cực tím trong ánh nắng mặt trời sẽ chuyển thành vitamin này.
      -Thanh trừ các gốc tự do và chống lão hoá:Gốc tự do là các sản phẩm có hại của quá trình chuyển hoá tế bào. Nấm hương có tác dụng thanh trừ các sản phẩm này, làm giảm chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ.
      -Tóm lại: Nấm hương có rất nhiều tác dụng, trong đó có 10 tác dụng lớn là: Hạ huyết áp, ngăn ngừa hình thành cục máu đông làm tắc mạch, giảm cholesterol, giảm béo, chữa viêm khớp, giảm albumin niệu, làm tăng interferon trong cơ thể, phòng ngừa suy lão, phòng trị ung thư, chữa tàn nhang.

      Một số món ăn dân gian là bài thuốc chữa bệnh từ nấm hương

      1-Canh nấm hương: Nấu nấm hương với mộc nhĩ và thịt thành canh với lượng bằng nhau, mỗi thứ 100 g. Có tác dụng giảm mỡ máu, điều hòa lipid trong máu (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      2-Rau cần xào nấm hương: 400g rau cần, 50g nấm hương, 50ml dầu mè, một ít bột năng, cùng gia vị. Rửa sạch rau cần, xắt thành từng đoạn dài 2cm, dùng muối trộn đều rồi rửa sạch lại, để ráo nước. Nấm hương xắt lát. Bột năng hòa với 50ml nước và ít muối trộn đều. Cho dầu mè vào chảo nóng, cho rau cần vào xào 2 - 3 phút, cho tiếp nấm hương vào. Sau cùng cho nước bột năng vào, nấu sền sệt cho ra đĩa. Rất tốt cho người mỡ máu cao, người bệnh mạch vành, đồng thời có tác dụng thanh nhiệt bình can (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      3-Gà hầm nấm: Nấm hương 250g, mộc nhĩ đen 100g, thịt gà mái 500g. Nấm hương và mộc nhĩ ngâm nước cho nở hết rồi cắt bỏ chân, rửa sạch, thái chỉ. Thịt gà rửa sạch, chặt miếng. Tất cả cho vào nồi, đổ một lượng nước vừa đủ, hầm nhừ bằng lửa nhỏ, chế thêm gia vị, ăn nóng.
      Công dụng: Kiện tỳ, bổ thận, ích khí, dưỡng huyết, dùng để chữa các chứng bệnh có biểu hiện khí huyết suy nhược, mệt mỏi nhiều, mắt mờ, đầu choáng, mất ngủ, hay quên (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      4-Nấm nấu đậu: Nấm hương 200g, đậu tương 50g, dầu gừng và tỏi lượng vừa đủ. Nấm hương ngâm nước cho nở hết rồi cắt bỏ chân, rửa sạch. Đậu tương ngâm nước rồi đãi bỏ vỏ. Tất cả cho vào nồi, đổ nước vừa đủ rồi hầm nhừ, chế thêm dầu vừng, tỏi đập giập và gia vị vừa đủ, ăn nóng. Rất tốt cho trẻ em bị còi xương, người già bị loãng xương và chứng phù thũng (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      5-Bầu dục xào nấm: Nấm hương 100g, bầu dục lợn 2 đôi, gia vị vừa đủ. Nấm hương ngâm nước cho nở hết rồi rửa sạch, cắt chân. Bầu dục lợn bổ đôi, ngâm nước lạnh 2 giờ, lọc bỏ gân trắng rồi thái miếng. Xào nấm và bầu dục lợn riêng rẽ, khi chín thì trộn cả hai vào nhau, chế thêm gia vị là được.
      Công dụng: Bổ thận, tráng dương, kích thích tiêu hóa, thích hợp cho những người yếu sinh lý, hay đau lưng, mỏi gối, ăn uống không ngon miệng (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      6-Hải sâm xào nấm: Nấm hương 15g, mộc nhĩ đen 15g, hải sâm 100g, gừng, tỏi và gia vị vừa đủ. Nấm hương và mộc nhĩ ngâm nước cho nở hết rồi rửa sạch, cắt chân, thái chỉ. Hải sâm ngâm nước lạnh vài giờ rồi làm sạch, thái miếng. Xào qua hải sâm rồi cho nấm hương và mộc nhĩ vào, cho thêm tỏi giã nát, gừng tươi thái chỉ, gia vị, đun thêm vài phút là được.
      Công dụng: Ích khí, bổ âm, cầm máu, tiêu viêm và phòng chống ung thư, đặc biệt là ung thư dạ dày (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      7-Chân giò hầm nấm: Nấm hương 150g, chân giò lợn 1 cái, gia vị vừa đủ. Chân giò lợn làm sạch, chặt miếng rồi đem hầm nhừ, cho nấm vào đun chín rồi chế thêm gia vị, ăn nóng.
      Công dụng: bồi bổ âm dương, dưỡng huyết, kích thích sự thèm ăn, tăng số lượng và chất lượng sữa ở phụ nữ nuôi con bú (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      8-Viêm gan mạn hay giảm bạch cầu: Nấm hương tươi 100 g, thịt lợn nạc 100 g thái miếng, cho cùng nấm vào nồi nấu thành canh, tra đủ mắm muối vừa miệng, ăn cái uống nước. Cần ăn 1-2 lần/ngày, trong nhiều ngày (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
      9-Tăng huyết áp, bệnh mạch vành, xơ cứng động mạch, tiểu đường: Nấm hương 15 g rửa sạch, bí xanh 500 g thái miếng cùng cho vào nồi nấu thành canh, tra mắm muối, hành là được. Ăn cái, uống nước, ngày 1-2 lần trong nhiều ngày liền (theo Sức Khỏe & Đời Sống)
      10-Viêm dạ dày, thiếu máu, sởi: Nấm hương 100 g, rửa sạch thái nhỏ, gạo tẻ 100 g, thịt bò luộc thái lát 50 g. Tất cả cho vào nồi nấu nhừ thành cháo, nêm hành, gừng, muối, vừa đủ để ăn. Mỗi ngày ăn 1-2 bữa. Cần ăn một thời gian mới hiệu nghiệm (theo Sức Khỏe & Đời Sống).
    3. Nấm Kim châm
      Nấm Kim châm trồng

      Nấm Kim châm hoang dại

      -Tên gọi khác: Nấm kim chi, nấm giá, câu khuẩn, phác cô, kim cô
      -Tên tiếng Anh:Velvet Foot/Winter Mushroom/Golden Needle Mushroom.
      -Tên khoa học: Flammulina velutipes (Curtis) Singer
      -Tên đồng nghĩa:

      Phân loại khoa học


      Giới (regnum):Nấm (Fungi)
      Ngành (divisio):Nấm đảm (Basidiomycota)
      Lớp (class):Nấm tản (Agaricomycetes)
      Bộ (ordo):Nấm tản (Agaricales)
      Họ (familia):Physalacriaceae
      Chi (genus):Nấm kim châm (Flammulina  P. Karst.)
      Loài (species):Flammulina velutipes (Curtis) Singer

      Phân bố

      Lớp nấm tản (Agaricomycetes) được biết có khoảng 17 Bộ (ordo), 100 Họ (family), 1.147 Chi (genus) với khoảng 20.951 loài (species).
      Đặc điểm của Bộ Nấm tản (Agaricales) là nấm có cuốn và mũ nấm với các cành bào tử đảm mọc dầy đặt ở các vách phía dưới mũ nấm. Tản nấm có kích thước mũ nấm từ vài mm cho đến loài nấm khổng lồ như loài nấm polypore ( Fomitiporia ellipsoidea ) có kíc thước mũ lớn hơn vài mét và có khối lượng đến 500 kg. Đây là loài nấm có kích thước lớn nhất thế giới và có tuổi thọ đến 1.500 năm!
      Trong Chi nấm kim châm (Flammulina  P. Karst.) thuộc Họ Physalacriaceae với khoảng 12 loài phân bố rộng rãi ở các vùng có khí hậu ôn hòa.
      Các loài trong Chi nấm Kim châm đa số là loai nấm ăn được, bao gồm:
      12-Flammulina velutipes (Enoki).
      Trong đó loài nấm Kim châm (Flammulina velutipes (Curtis) Singer) được khai thác trong tự nhiên và được trồng ở nhiều nước vùng nhiệt đới và ôn đới trên khắp thế giới.
      Theo các nghiên cứu của Trung Quốc cho biết Nấm kim châm (F.velutipes) được trồng nhân tạo đầu tiên khoảng năm 800 sau Công nguyên (AD), sau nấm mèo ( 600 AD)  và trước khi nấm Linh chi (1000 AD).

      Mô tả

      Nấm có hình giá đậu nhưng với kích thước lớn. Mũ nấm lúc còn non có hình cu hay hình bán cầu, về sau chuyển sang dạng ô. Mũ nấm có màu vàng nhạt, ở giữa có màu vàng thẫm hơn.
      Cuống có màu trắng hay vàng nhạt, nửa dưới có màu nâu nhạt.
      Nấm kim châm trồng là một loài nấm màu trắng được sử dụng trong ẩm thực các nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên. Trong thời gian gần đây loài nấm này được trồng phổ biến ở hầu hết các nước Châu Á, một số nước Châu Âu và Nam Mỹ vì nó có giá trị dinh dưỡng cao và dạng sợi và mũ nấm màu trắng tuyết nên được người tiêu dùng ưa chuộng như một loại rau sạch cao cấp và tính chất bổ dưỡng và dược liệu của nó.
      Đây là giống trồng của Flammulina velutipes. Dạng cây mọc hoang có màu khác.

      Nấm Kim châm mọc hoang

      Thành phần hóa học

      Giá trị dinh dưỡng
      Trong nấm kim châm có nhiều kẽm và kali nên rất hữu ích cho người già và bệnh nhân tăng huyết áp. Loại nấm này cũng chứa một chất có tác dụng chống ung thư rất hiệu quả.
      Nấm kim chân còn có tên câu khuẩn, phác cô, kim cô..., là một trong những loại nấm có giá trị dinh dưỡng cao.
      Trong 100 g nấm kim châm khô có hơn 31 g protid, 6 g lipid. Nó chứa nhiều loại vitamin như B1, B2, C, PP, E và các acid amin cần thiết cho sự phát triển cơ thể, trong đó đặc biệt nhiều lysine (hàm lượng cao gấp đôi so với nấm mỡ), rất cần cho quá trình sinh trưởng phát dục, cải thiện chiều cao và trí lực của trẻ em. Vì thế, loại nấm ăn này còn được gọi là “Tăng trí cô” (nấm tăng cường trí lực).
      Ngoài ra, hàm lượng Zn và K trong nấm kim châm tương đối cao trong khi nhưng hàm lượng Na lại rất thấp nên đây cũng là một trong những loại thực phẩm hữu ích cho người già và những bệnh nhân bị tăng huyết áp.
      Nấm kim châm có các chất chống ôxi hóa như ergothioneine.
      Nghiên cứu hiện đại cho thấy, nấm kim châm còn có tác dụng làm hạ mỡ máu, phòng chống bệnh lý viêm loét đường tiêu hóa và bệnh gan mật. Các nhà khoa học Nhật Bản đã chiết xuất từ loại nấm này ra một chất có tác dụng chống ung thư rất hiệu quả. Bởi vậy ở Nhật Bản, nấm kim châm trở thành loại thực phẩm rất được ưa chuộng.
      Nhìn chung, nấm kim châm dùng rất tốt cho trẻ em đang tuổi phát triển, những người suy dinh dưỡng, thiếu máu, thể chất hư nhược, bị bệnh tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, vữa xơ động mạch, béo phì, tiểu đường, ung thư... Tuy nhiên, theo y học cổ truyền, nấm kim châm vị ngọt, tính mát nên những người tỳ vị hư nhược, hay đầy bụng, chậm tiêu, đại tiện lỏng, nát thì không nên dùng.
      Giá trị dược liệu
      Nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Singapore lần đầu tiên xuất bản năm 2005 cho rằng thân cây nấm kim châm có chứa một số lượng lớn của một protein, chỉ định 5, giúp điều hòa hệ thống miễn dịch. Động vật thử nghiệm cho thấy có thể sử dụng đối với khả năng sử dụng làm vắc xin và miễn dịch ung thư. Nó cũng chứa chất flammutoxin, một loại protein cytolytic và cardiotoxic, mà có thể hấp thụ kém bằng đường ăn uống kém.
      Các nghiên cứu hiện đại cho rằng nấm kim chi có tác dụng làm hạ mỡ máu, phòng chống các bệnh viêm loét đường tiêu hóa và bệnh gan, mật. Đặc biệt, các nhà khoa học Nhật Bản đã chiết được một chất có khả năng chống ung thư khá hiệu quả nên đã trở thành loại nấm được nhiều người Nhật ưa chuộng.
      Cũng như các dược liệu khác, nấm kim chi còn gọi là câu khuẩn, phác cô, kim cô..., là một loại nấm giàu dinh dưỡng. Người ta đã phân tích trong 100g nấm kim chi thấy chứa các thành phần chủ yếu như protid 31g, lipid 6g, các vitamin B1, B2, C, PP, E, rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể, cùng nhiều loại acid amin khác nhau, đặc biệt hàm lượng chất lysin cao gấp đôi so với nấm mỡ; là chất cần cho sinh trưởng và phát dục, cải thiện chiều cao và trí lực cho trẻ.
      Ngoài ra còn chứa hàm lượng kali và kẽm tương đối cao, mà hàm lượng natri lại thấp, nhờ vậy đây cũng là thức ăn có lợi cho người già đồng thời phù hợp cho những người mắc chứng tăng huyết áp.

      Công dụng

      a-Nấm Kim châm dùng làm rau cao cấp
      Đây là loài nấm có thể dùng tươi hoặc đóng hộp, với các chuyên gia khuyên dùng khi nấm tươi với mũ cứng, màu trắng, bóng, và tránh dùng nấm có thân nhầy nhụa hoặc hơi nâu.Loại nấm này theo truyền thống được sử dụng nấu món lẩu, nhưng cũng có thể được sử dụng cho món salad và các món ăn khác. Có thể bảo quản bằng cách ướp lạnh trong khoảng một tuần.
      Món ăn thích hợp từ nấm Kim châm là món xào và món nấu.
      Nấm kim châm xào: Có nhiều cách dùng nấm kim châm, đơn giản nhất là xào nấu đơn thuần, hoặc xào phối hợp với nhiều loại thực phẩm khác, vừa là món ăn bổ dưỡng vừa là bài thuốc.
      Nấm Kim châm nấu canh, súp: Trong các món canh Châu Á, súp Châu Âu khi nấu với nấm Kim châm sẽ có hương vị đặc biệt.
      Nấm kim châm nấu lẩu: Ở Trung Quốc, Nhật bản, hà Quốc, Đài Loan món lẫu nấu với nấm kim châm là món ăn cao cấp.
      b-Nấm Kim châm được dùng làm thuốc
      -Theo Đông y, nấm kim chi có vị ngọt, tính mát, những người tỳ, vị hư nhược, đầy bụng, chậm tiêu, đại tiện lỏng nát không nên dùng. Để cùng tham khảo và có thể áp dụng, dưới đây xin giới thiệu những món ăn - thuốc từ nấm kim chi trị liệu một số bệnh chứng.
      -Theo Y học hiện đại
      Các nghiên cứu ở nhật Bản từ năm 1972 đến năm 1986 kết luận khả năng chống ung thư của nấm kim châm là rõ rệt. Qua khảo sát 174.505 người dân sống ở khu vực Nagano của Nhật Bản nơi có thói quen trồng và tiêu thụ nhiều nấm Kim châm (F. Velutipes) tỷ lệ tử vong đạt mức 97,1 người/100.000 dân, trong khi đó tỷ lệ tử vong bình quân cả nước trong thời kỳ này là 160,1 người/100.000 dân mà nguyên nhân chủ yếu là bệnh ung thư. Từ kết luận này người Nhật ngày càng dùng nhiều nấm Kim châm hơn và tuổi thọ của người Nhật trong 3 thập niên trở lại đây tăng đáng kể.
      Tiếp theo một nghiên cứu có kiểm soát khác ở Nhật bản trong cùng một quận ở Nagano trong thời gian 4 năm (1998-2002) đã kết luận những người có ăn nấm kim châm nhiều thì tỷ lệ bệnh ung thư dạ dày giảm đáng kể so với những người ít ăn nấm kim châm. Nghiên cứu cho biết thang nhiểm ung thư dạ dày của những người không ăn nấm kim châm hoặc ăn dưới 1 lần trong tuần được đánh giá là 1,0. Những người có ăn hơn 3 lần nấm Kim châm (F. velutipes)mỗi tuần thì thang nhiểm ung thư dạ dày giảm xuống chỉ còn 0,66 (giảm 44%). Trong khi những người không ăn nấm Kim châm mà có ăn Nấm Hương (Lentinus edodes) (Shiitake) hơn ba lần một tuần thì thang nhiểm ung thư dạ dày là 0,95 (chỉ giảm 5%). 
      Các bác sĩ Nhật Bản đánh giá cao về giá trị dinh dưỡng và dược năng của nấm Kim châm. Họ cho biết trong nấm Kim châm (F. Velutipescho hàm lượng protein cao (31,2% chất khô) và số lượng lớn các thành phần protein phong phú  cũng như polysaccharides điều hòa miễn dịch  và chống ung thư mạnh mẽ  hơn.
      Dịch chiết từ nấm Kim châm (F. Velutipescũng chứng minh sự ức chế men tyrosinase mạnh mẽ. Dịch chiết xuất này có tác động chống tế bào ung thư rõ nét trong ống nghiệm . 
      Trong một nghiên cứu chiết xuất từ 38 loại nấm thực hiện bởi Đại học Bastyr (Trường Đại Học Y tư nhân ở Hoa kỳ) cho biết nấm Kim châm (F. Velutipes) có mức cao nhất của hoạt động ức chế đối với hai estrogen phụ thuộc và độc lập dòng tế bào ung thư vú . 
      Trong một nghiên cứu riêng biệt của dung dịch nước chiết xuất từ 20 loại nấm và 3 các polysaccharides nấm, chiết xuất dung dịch nước từ nấm Kim châm (F. Velutipes) cùng với nấm bào ngư (Pleurotus ostreatus) cho thấy nấm Kim châm đạt mức cao nhất của hoạt động gây độc chống lại các tế bào ung thư tuyến tiền liệt androgen độc lập.
      Trong cơ thể , EA6, một protein polysaccharide ràng buộc phân lập từ thể quả của nấm Kim châm có sự tăng cường khả năng miễn dịch dịch thể, miễn dịch tế bào, ức chế đáng kể sự tăng trưởng của khối u ơ chuột và rắn.
      Các thí nghiệm trong cơ thể động vật cũng rút ra kết luận khả năng chống tế bào ung thư niêm mạc thực quản. Protein từ Nấm Kim châm (F. Velutipes) cũng cho thấy hoạt động trực tiếp chống virus, bao gồm cả hoạt động bất hoạt ribosome và ức chế vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV-1) sao chép ngược lại, beta-glucosidase và beta-glucuronidase 
      Tóm lại ngoài tác động chống viêm nhiểm, tác dụng chống tế bào ung thư của nấm Kim châm đang được ngành Tây y nghiên cứu để ly trích ra những hoạt chất chống ung thư và nấm Kim châm thực sự được chế biến thành thực phẩm chức năng để hổ trợ điều trị ung thư đang được phát triển ở Nhật Bản, Hàn Quốc và phương Tây.
      Trong thực phẩm chức năng, các nhà chuyên môn khuyên rằng nên dùng hàng ngày 3-5 g bột nấm Kim chi khô (tương đương 30-50 g nấm tươi) có tác dụng ngăn ngừa ung thư và hổ trợ trong điều trị bệnh ung thư.
      NguồnBrazilian Archives of Biology and Technology Print version  ISSN 1516-8913.

      Các món ăn- bài thuốc từ nấm Kim châm

      Dưới đây là một số ví dụ về món ăn-bài thuốc tù nấm kim châm điển hình:
      1- Nấm kim chi - thịt gà: 
      Công dụng: bổ trung ích khí, dưỡng huyết tư âm, tăng tinh ích trí.
      Nấm kim châm 300-500 g, thịt gà 150 g, mực tươi 150 g, trứng gà một quả, cà rốt, dưa chuột, gừng tươi, dầu ăn, bột đao, gia vị vừa đủ. Nấm kim châm chần qua nước sôi, để ráo; mực tươi thái chỉ, chần nước sôi cùng với gừng tươi giã nát; thịt gà thái chỉ ướp gia vị, lòng trắng trứng và một chút bột đao. Đun dầu nóng già rồi cho nấm, thịt gà và mực vào xào (dùng lửa to đảo nhanh tay), ăn nóng. (theo ThS. Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Sống).
      2- Nấm kim châm - gan lợn: 
      Công dụng: kiện tỳ dưỡng can, ích khí hoạt huyết, ích trí kháng ung.
      Nấm kim châm 150 g, gan lợn luộc chín thái chỉ 150 g, hành hoa 50 g, củ cải thái chỉ 50 g, nước dùng 50 ml, nước gừng tươi, tỏi, dầu ăn và gia vị vừa đủ. Đổ dầu ăn vào chảo, phi tỏi rồi cho nấm, gan lợn, củ cải vào xào, chế thêm nước gừng, gia vị và nước dùng, khi gần được cho hành hoa vào, đun to lửa, đảo nhanh tay thêm ít phút là được, ăn nóng. (theo ThS. Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Sống).
      3- Nấm kim châm - thịt bò: 
      Công dụng: kiện tỳ dưỡng can, lợi thủy tiêu thũng, ích trí kháng ung.
      Nấm kim châm 300 g, thịt bò 200 g, măng củ 100 g, củ cải 50 g, khoai tây một củ, nước gừng tươi, nước dùng, dầu ăn và gia vị vừa đủ. Nấm kim châm cắt đoạn chừng 5 cm; măng củ và củ cải thái chỉ; thịt bò thái miếng mỏng to bản, ướp nước gừng và gia vị. Dùng từng miếng thịt bò cuộn nấm kim châm, măng và củ cải rồi đem hấp cách thủy; tiếp đó đun sôi nước dùng, chế đủ gia vị và cho thêm một ít bột đao rồi bỏ thịt bò cuộn rim kỹ là được, ăn nóng với rau sống. (theo ThS. Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Sống).
      4- Nấm kim châm - tôm nõn:
      Công dụng: kiện tỳ dưỡng can, tư âm bổ thận, ích trí kháng ung.
      Nấm kim châm 300 g, thịt ba chỉ 150 g, tôm nõn 50 g, đậu hà lan 20 g, trứng gà một quả, dầu ăn, bột đao và gia vị vừa đủ. Nấm chần qua nước sôi; thịt thái chỉ, ướp gia vị và lòng trắng trứng gà. Đổ dầu ăn vào chảo, phi hành tỏi rồi cho tôm nõn và thịt gà vào xào, sau đó cho tiếp nấm và đậu hà lan, đun to lửa, đảo nhanh tay chừng ít phút là được, ăn nóng. (theo ThS. Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Sống).
      5- Nấm kim châm - giá đậu: 
      Công dụng: kiện tỳ dưỡng can, thanh nhiệt giải độc, lợi thủy thông tâm.
      Nấm kim châm 250 g, giá đỗ 250 g, ớt xanh và đỏ mỗi loại 50 g, cà rốt 50 g, tỏi, dầu ăn, đường trắng và gia vị vừa đủ. Nấm kim châm và giá đỗ chần qua nước sôi; ớt và cà rốt thái chỉ, chần qua nước sôi. Dùng nước mắm, đường, giấm, mỳ chính và tỏi, ớt băm nhỏ pha sẵn vào bát, nếm thấy vị chua, ngọt, mặn, cay dịu là được. Khi ăn, trộn đều nấm, giá đỗ, ớt và cà rốt, cho vào đĩa rồi rưới nước gia vị đã pha vào trộn đều cho ngấm, có thể chế thêm một chút dầu thực vật rồi rắc rau thơm thái nhỏ lên trên, ăn nguội. (theo ThS. Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Sống).
      6-Nấm kim châm-mực tươi:
      Công dụng: tư âm bình can, kiện tỳ dưỡng huyết, trừ phong lợi thấp.
      Nấm kim châm 200 g, mực tươi 300 g, rau cần 150 g, củ cải 100 g, gừng tươi thái chỉ, tỏi và gia vị vừa đủ. Nấm ngâm nước sôi 2 phút, vớt ra để ráo; rau cần cắt đoạn; củ cải gọt bỏ vỏ, thái chỉ, chần qua nước sôi; mực thái chỉ, luộc chín cùng với gừng tươi; pha nước gia vị như cách trên. Trộn đều nấm, mực, rau cần và củ cải, cho vào đĩa rồi rưới nước gia vị đã pha vào trộn đều cho ngấm là được, rắc rau thơm lên trên, ăn nguội. (theo ThS. Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Sống).
      7-Nấm kim chi - thịt gà: 
      Công dụng: bổ trung ích khí, dưỡng huyết tư âm, tăng tinh ích trí.
      Nấm kim châm 300-500g, thịt gà 150g, mực tươi 150g, trứng gà 1 quả, cà rốt, dưa chuột, gừng tươi, dầu ăn, bột đao, gia vị vừa đủ. Chần qua nước sôi nấm kim chi, để ráo nước, mực tươi thái sợi, chần nước sôi có gừng tươi giã nát, thịt gà thái chỉ ướp gia vị cùng lòng trắng trứng gà và một chút bột đao, đun dầu nóng già thì cho nấm, thịt gà, mực vào, nổi to lửa, xào đảo nhanh tay một lúc bắc ra ăn nóng. (Theo BS. Hoàng Xuân Đại).
    4. Nấm Linh chi-Tên gọi khác: Nấm Linh chi đỏ, Tiên thảo, Nấm trường thọ, Vạn niên nhung.
      -Tên tiêng Anh: Lingzhi mushroom
      -Tên khoa học: Ganoderma lucidum (CurtisP. Karst

      Nấm Linh chi

       Phân loại nấm

      Giới (regnum):Nấm (Fungi).
      Ngành (phylum):Nấm đảm (Basidiomycota).
      Lớp (class):Nấm đảm (Agaricomycetes)
      Bộ (ordo):Nấm đa tầng (Polyporales).
      Họ (familia):Nấm lim (Ganodermataceae).
      Chi (genus):Nấm Linh chi (Ganoderma).
      Loài (species):
      Nấm linh chi đỏ-Ganoderma lucidum
      Các loài tương cận
      Chi nấm Linh chi (Ganoderma) bao gồm khoảng 80 loài nấm phân bố rộng trên vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới trên khắp thế giới. Loài nấm này sống hoại sinh trên vỏ cây đại thụ sần sùi hay trên thân cây gổ đã chết, trong tự nhiên chúng sống trong các rừng rậm nhiệt đới cho đến rừng cây lá kim ở vùng ôn đới.
      Ở Châu Á tên nấm Linh Chi có một lịch sử trên 2.000 năm. Tên nấm Linh Chi ở Trung Quốc lần đầu tiên được ghi lại trong triều đại Đông Hán (25-220 năm trước Công nguyên). Theo nghĩa bóng của tiếng Hán thì “Linh chi” là thực vật thiêng liêng có tuổi thọ cao." Hay “thực vật tốt lành".
      Ở Trung Quốc nấm Linh chi là các loài nấm gỗ mọc hoang ở những vùng núi cao và lạnh ở các tỉnh Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Ðông.
      Sách Bản thảo cương mục (in năm 1595) của Lý Thời Trân, đại danh y Trung Quốc đã phân loại linh chi theo màu sắc thành 6 loại, mỗi loại có công dụng chữa bệnh khác nhau:
      - Loại có màu vàng gọi là Hoàng chi hoặc Kim chi.
      - Loại có màu xanh gọi là Thanh chi.
      - Loại có màu hồng, màu đỏ gọi là Hồng chi hay Ðơn chi hoặc Xích chi.
      - Loại có màu trắng gọi là Bạch chi hay Ngọc chi.
      - Loại có màu đen gọi là Huyền chi hay Hắc chi.
      - Loại có màu tím gọi là Tử chi. 
      Trong thực tế nấm linh chi có rất nhiều loài khác nhau, sự phân biệt trên cũng chỉ dựa vào cảm quan về màu sắc, chưa dựa trên cơ sở khoa học nào.
      Chi nấm Linh chi (Ganodermataceae) được đặt tên khoa học bởi Karsten vào năm 1881. Các loài của Họ nấm Linh chi truyền thống khó phân loại vì thiếu các đặc điểm hình thái đáng tin cậy, dư thừa các từ đồng nghĩa, và lạm dụng tên rộng rãi.
      Vào năm 1905, nhà nấm học Mỹ William Murrill đề nghị tách riêng các loài nấm linh chi khổng lồ thành Chi  Tomophagus để chỉ các loài nấm Linh chi có hình dạng khác các loài nấm linh chi khác. Sau này phân tích phát sinh loài chứng minh sự tách chi trên là đúng.
      Cho đến gần đây, giống nấm Linh chi được chia thành hai nhóm:
      -Nhóm nấm linh chi có  bề mặt mũ sáng bóng (Ganoderma lucidum).
      -Nhóm nấm linh chi có bề mặt mũ sần sùi (Ganoderma applanatum ).
      Hiện nay phân tích Hệ thống sinh  bằng cách sử dụng thông tin trình tự DNA có nguồn gốc từ rDNA ty thể SSU, đã làm rõ về mối quan hệ giữa các loài nấm Linh Chi.
      Giống nấm Linh chi bây giờ có thể được phân chia thành 6 nhóm đơn ngành :
      -Nhóm nấm linh chi khổng lồ G. khổng lồ .
      -Nhóm nấm linh chi G. applanatum .
      -Nhóm nấm linh chi G. tsugae .
      -Nhóm nấm linh chi Châu Á G. lucidum .
      -Nhóm nấm linh chi G. meredithiae.
      -Nhóm nấm linh chi G. resinaceum .
      Sau đây là các loài quan trọng nhất trong Chi nấm Linh chi:
      -Ganoderma applanatum - Còn được gọi là ốc xà cừ của nghệ sĩ.
      Ganoderma lucidum - Còn được gọi là Reishi hoặc Linh Chi.
      Nấm Linh Chi multipileum – Nấm G. lucidum trong vùng nhiệt đới châu Á.
      Ganoderma philippii - Một tác nhân gây bệnh thực vật.
      Nấm Linh Chi pseudoferreum – Gây thối rể cây ca cao, cà phê, cao su và cây chè.
      Nấm Linh Chi tsugae - Phát triển trên cây lá kim , đặc biệt là cây độc cần.

      Phân bố

      Nấm linh chi phân bố rộng rãi ở vùng rừng rậm nhiệt đới và cận nhiết đới ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ . Được khai thác lâu đời nhất ở Trung quốc, Việt Nam và Ấn Độ. Hiện được trồng theo công nghệ thâm canh ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và bắt đầu trồng ở một số nước Đông Nam Á và Nam Mỹ.
      Nấm linh chi (Ganoderma lucidum ) có hai hình thức phát triển, một là nấm không cuống được tìm thấy vùng ôn đới ở Bắc Mỹ và hai là nấm có cuống dài và dẹp được tìm thấy ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên do môi trường, có dạng trung gian giữa hai dạng nêu trên.

      Mô tả

      Nấm Linh Chi được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền ở Châu Á, đây là một Chi nấm rất quan trọng về kinh tế. Đặc điểm để phân biệt nấm linh chi với các loài khác là trên mũ nấm có hai vách, bào tử màu đỏ tươi hình thành phía bên trong giữa hai vách.
      Nấm Linh chi có tên khoa học là Ganoderma, phát xuất từ tiếng Hy lạp: ganos "độ sáng, lấp lánh" và derma "da", có nghĩa là các loài nấm có màu da sáng sủa.
      Tuy nhiên trong hực tế có nhiều loài khác nhau với nhiều màu sắc khác nhau.
      Linh Chi là loại nấm hoại sinh trên gỗ mục nát với với tính phân bố quốc tế, và có thể phát triển trên gổ cả hai loài cây lá kim và gỗ cứng. Khuẩn ty là những sợi nấm trắng,  có enzyme để phá vỡ các thành phần gỗ như lignin và cellulose . 
      Hiện đã có nghiên cứu để khai thác sức mạnh của các enzym này làm suy giảm gỗ cho các ứng dụng công nghiệp như biopulping hoặc xử lý sinh học.

      Thành phần hóa học

      Trong nấm linh chi (Ganoderma lucidum ) không có nhiều chất dinh dưỡng cho calo như các loài nấm ăn khác nhưng nó có các dược liệu quý giá mà ở các loài nấm ăn khác có rất ít. Nấm linh chi sản xuất một nhóm triterpenes , được gọi là ganoderic acids, trong đó có một cấu trúc phân tử tương tự như steroid hormone .
      Nó cũng chứa các hợp chất khác bao gồm các polysaccharides như beta-glucan , coumarin , mannitol , và alkaloids .
      Có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã định danh được các hoạt chất và xác định tác dụng dược lý của nấm linh chi như: Germanium, acid ganoderic, acid ganodermic, acid oleic, ganodosteron, ganoderans, adenosin, beta-D-glucan,… (đặc biệt trong nấm Linh chi, có hàm lượng germanium cao hơn trong nhân sâm đến 5 - 8 lần). Các nhà khoa học Việt Nam tìm thấy trong nấm Linh chi có chứa 21 nguyên tố vi lượng cần thiết cho sự vận hành và chuyển hóa của cơ thể như: đồng, sắt, kalium, magnesium, natrium, calcium…

      Công dụng

      a-Nấm Linh chi được dùng làm rau gia vị cao cấp

      Thực sự trong nấm linh chi không có nhiều chất dinh dưỡng, nấm có độ dai, cứng và nhám, có vị đắng rất khó ăn. Tuy nhiên người ta vẩn dùng nấm linh chi trong các món nấu cao cấp với hương vị hơi đắng giống như món thịt dê hầm thuốc bắc.
      Việc sử dụng nấm linh chi để nấu thực phẩm còn mang tính sùng bái theo tâm lý.

      b-Nấm linh chi chủ yếu được dùng làm thuốc

      +Theo y học cổ truyền Việt Nam: nấm Linh chi có vị nhạt, tính ấm, có tác dụng tư bổ cường tráng, bổ can chí, an thần, tăng trí nhớ.
      +Theo y học cổ truyền Trung Quốc: nấm Linh chi là một loại thuốc quý, có tác dụng bảo can (bảo vệ gan), giải độc, cường tâm, kiện nảo (bổ óc), tiêu đờm, lợi niệu, ích vị (bổ dạ dày); gần đây các nhà khoa học Trung Quốc và Nhật phát hiện nấm linh chi còn có tác dụng phòng và chống ung thư, chống lão hóa làm tăng tuổi thọ.
      Do nấm Linh chi sống trong những điều kiện sinh thái khác nhau có màu sắc biến đổi khác nhau nên trong y học phương Đông cũng phân chia chúng ra nhiều loại với những tác dụng y học khác nhau:
      -Thanh linh chi (xanh) vị toan bình. Giúp cho sáng mắt, giúp cho an thần , bổ can khí, nhân thứ, dùng lâu sẽ thấy thân thể nhẹ nhàng và thoải mái.
      -Xích linh chi (đỏ), có vị đắng, ích tâm khí, chủ vị, tăng trí tuệ.
      -Hắc linh chi (đen) ích thận khí, khiến cho đầu óc sản khoái và tinh tường.
      -Bạch linh chi (trắng) ích phế khí, làm trí nhớ dai.
      -Hoàng chi (vàng) ích tì khí, trung hòa, an thần.
      -Tử chi (tím đỏ) bảo thần, làm cứng gân cốt, ích tinh, da tươi đẹp.
      +Theo y học hiện đại Hàn Quốc: cho biết chỉ có 6 loại nấm Linh Chi được nghiên cứu tường tận về khả năng trị liệu của chúng, đó là: nấm Linh Chi đỏ, đen, xanh da trời, trắng, vàng và tím. Trong 6 loại nầy, nấm Linh Chi đen và đỏ được coi là có tác dụng trị liệu tốt nhất, và được dùng nhiều nhất trên thế giới hiện nay.
      Nấm Linh Chi đỏ được chứng minh là tốt nhất cho sức khỏe vì nó thúc đẩy sự làm việc của hệ thống miễn dịch, làm tăng sự hoạt động của cơ thể và chống lão hóa. Nấm Linh Chi đen thường được bán trong các tiệm thuốc đông dược. Loại nấm nầy có nhiều kích cỡ. Thường các tay nấm trưởng thành có đường kính 6 inches, nhưng cũng có những tay nấm có đường kính đến 10 inches. Phần lớn các sản phẩm được giới thiệu là “từ thiên nhiên” được làm bằng nấm Linh Chi đen. Mặc dù được coi như là một dược thảo bổ dưỡng, nấm Linh Chi đen không có giá trị bằng nấm Linh Chi đỏ vì nó không chứa nhiều polysaccharides bằng nấm Linh Chi đỏ.
      +Theo các nhà nghiên cứu Châu Âu: Ngày nay người ta biết trong nấm Linh chi có chất germanium giúp tế bào hấp thụ oxy tốt hơn; các chất polysaccharit làm tăng sự miễn dịch trong cơ thể, làm mạnh gan, diệt tế bào ung thư; acid ganodermic chống dị ứng, chống viêmchống khối u , miển địch (immunotherapeutic) và điều hòa miễn dịch được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về polysaccharides , tecpen , và các hợp chất hoạt tính sinh học phân lập từ quả thể và sợi nấm của loại nấm này
      Nó cũng đã được tìm thấy ức chế tiểu cầu kết tập, và huyết áp thấp hơn (thông qua ức chế enzyme chuyển đổi angiotensin), cholesterol và đường trong máu.
      Phòng thí nghiệm nghiên cứu đã cho thấy tác dụng chống Neoplastic của các chất chiết xuất từ nấm hoặc các hợp chất cô lập đối với một số loại ung thư , bao gồm ung thư biểu mô buồng trứng.Trong một mô hình động vật, Nấm Linh Chi đã được báo cáo để ngăn chặn di căn ung thư, với tiềm năng so sánh với nấm Lentinan Shiitake .
      Các cơ chế mà G. lucidum ảnh hưởng đến ung thư là chưa biết và họ có thể nhắm mục tiêu các giai đoạn khác nhau của sự phát triển ung thư: ức chế sự hình thành mạch (hình thành các mạch máu mới, do khối u gây ra, tạo ra để cung cấp chất dinh dưỡng cho khối u) qua trung gian cytokine , cytoxicity , ức chế sự di cư của các tế bào ung thư và di căn , và gây cảm ứng và tăng cường apoptosis của các tế bào khối u .
      Tuy nhiên, chiết xuất G. lucidum đã được sử dụng trong dược phẩm thương mại như MC-S cho tế bào ung thư phổ biến vũ khí đàn áp và di cư.
      Các nghiên cứu chỉ ra rằng ganoderic acid có một số tác dụng bảo vệ chống lại tổn thương gan do virus và các tác nhân độc hại khác ở chuột, cho thấy một lợi ích tiềm năng của hợp chất này trong điều trị bệnh gan ở người,và sterol có nguồn gốc từ Linh Chi ức chế lanosterol 14α- demethylase hoạt động trong sinh tổng hợp cholesterol . Hợp chất Linh Chi  ức chế 5-alpha reductase hoạt động trong quá trình sinh tổng hợp của dihydrotestosterone .
      Bên cạnh tác động về sinh lý học động vật có vú, Nấm Linh Chi được báo cáo là có các hoạt động chống vi khuẩn trực tiếp như  Aspergillus niger , Bacillus cereus , Candida albicans , và Escherichia coli và chống virus như HSV-1 , HSV-2 , vi rút cúm , mụn nước viêm miệng . nấm Linh Chi được báo cáo cho triển lãm đặc tính chống  (theo nguồn của RR PatersonLindequist et al.)

      Một số bài thuốc từ nấm linh chi

      Theo các tài liệu cổ và những nghiên cứu khoa học gần đây, có thể tóm tắt tác dụng chủ yếu của Linh chi như sau:
      1-Đối với hệ tim mạch: Nấm Linh chi có tác dụng điều hòa, ổn định huyết áp. Khi dùng cho người huyết áp cao, nấm Linh chi làm hạ huyết áp, dùng lâu thì huyết áp ổn định.
      -Với người suy nhược, huyết áp thấp, nấm Linh chi có tác dụng nâng huyết áp nhờ vào khả năng cải thiện, chuyển hóa dinh dưỡng.
      -Nấm Linh chi làm giảm cholesterol toàn phần, làm tăng nhóm lipoprotein tỷ trọng cao trong máu, dùng tốt với những người bị xơ mỡ động mạch.
      -Nấm Linh chi làm giảm khả năng kết tập tiểu cầu nên dùng được với những trường hợp co thắt mạch vành, nhờ vậy mà giảm được cơn đau thắt tim.
      Kết quả nghiên cứu trên thực nghiệm đã chứng tỏ Linh chi có tác dụng cải thiện công năng tim mạch, tăng lưu lượng máu tim và động mạch vành, tăng tuần hoàn mao mạch tim.
      2-Với các bệnh hô hấp: Nấm Linh chi được dùng để điều trị viêm phế quản dị ứng, hen phế quản, hiệu quả có thể đạt tới 80%.
      3-Với các bệnh gan mật: Linh chi có tác dụng tốt tới các bệnh gan mạn tính nhờ vào tác dụng nâng cao chức năng gan. Theo các nghiên cứu của PGS. TS. Trịnh Xuân Hậu (ĐH Khoa Học Tự Nhiên - ĐH Quốc Gia Hà Nội) và TS. Lê Xuân Thám (Trung tâm Kỹ thuật Hạt nhân TP.HCM), nấm Linh Chi nuôi trồng tại Việt Nam có tác dụng bảo vệ phóng xạ khá tốt trên thực nghiệm.Với bệnh tiểu đường: Linh chi có khả năng ổn định đường huyết ở những người bị bệnh đái tháo đường do trợ giúp quá trình tạo glycogen, tăng cường oxy hóa acid béo, giảm tiêu hao glucose.
      4-Với bệnh thấp khớp: Bác sĩ Wilkinson (Anh) cho biết nấm Linh chi tỏ ra rất hiệu quả trong điều trị viêm khớp nhờ các tác nhân chống viêm tên là ftriturpinoids, có tác dụng tương tự corticoid.
      5-Với bệnh ung thư: Các nhà nghiên cứu Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan đã thực hiện nhiều công trình chứng minh nấm Linh chi có đặc tính tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Theo kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư dạ dày, tử cung,... của Trung tâm điều trị ung thư (Tokyo - Nhật Bản), tỷ lệ người bệnh dùng nấm Linh chi sống thêm 5 năm cao hơn những người không dùng nấm.
      Nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy Linh chi chứa một số hoạt chất như: acid amin, nguyên tố vi lượng, ergosterol, lyzozym, protease, acid hữu cơ, alkaloid,...
      Do nguồn nấm Linh chi hoang dại thường không ổn định về hoạt chất và khả năng cung cấp, từ năm 1970, các nhà khoa học Nhật Bản thành công trong việc nuôi trồng Linh chi trong môi trường nhân tạo và từ đó kỹ thuật này liên tục được cải tiến và dần đạt đến quy mô công nghiệp. Sau đó, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông cũng bắt đầu tăng cường sản xuất Linh chi và mở rộng sử dụng dược liệu này từ thập niên 1980 trở lại đây.
      Tại Việt Nam, chúng ta cũng đã nuôi trồng được Linh chi tại một số trung tâm khoa học như: Học Viện Quân Y (chi nhánh phía Nam - TS. Lê Võ Định Tường- 1995); Đại học Khoa Học Tự Nhiên (Đại Học Quốc Gia Hà Nội - PGS. TS Nguyễn Thị Chính, Trương Thị Hòa - 1998); Trung tâm nghiên cứu Linh chi và nấm dược liệu (81/1 Hà Huy Giáp, phường Thạnh Lộc, quận 12, TP.HCM),... Nhiều xí nghiệp, công ty đã cho ra đời các sản phẩm từ nguyên liệu Linh chi Việt Nam như: Mekophar; OPC, Fitopharma (Bình Dương); Công ty Dược Lâm Đồng,... Các sản phẩm này có thể là Linh chi nguyên chất hoặc phối hợp với Nhân sâm, Tam thất và một số dược liệu khác, đồng thời cũng khá đa dạng về chủng loại: viên nang, trà túi lọc, rượu,... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Bạn có thể mua các chế phẩm Linh chi này tại các nhà thuốc, siêu thị.
      Nếu muốn tự chế biến, bạn cũng có thể mua nấm Linh chi tại các cửa hàng Đông dược và làm theo một số cách như sau:
      1-Linh chi ngâm rượu: xắt mỏng nấm Linh chi, ngâm với rượu 40 - 450C khoảng 3 tuần. Khi dùng, uống 2 lần mỗi ngày, mỗi lần khoảng 1 chén nhỏ.
      2-Linh chi nấu nước uống: lấy khoảng 4 - 12g Linh chi đã xắt thành lát mỏng, thêm 3 chén nước sạch, đun to lửa cho đến sôi, hạ bớt lửa để sôi riu riu đến khi còn khoảng 1 chén nước. Chiết nước riêng ra. Bã còn lại thêm nước, nấu thêm 2 lần nữa. Sau đó trộn chung cả 3 dịch sắc, chia làm 3 lần uống mỗi ngày.
      3-Trà Linh chi: sấy nấm Linh chi, tán nghiền thành bột. Mỗi lần dùng, lấy khoảng 2 - 4g, thêm 200ml nước sôi, hãm khoảng 10 phút rồi uống. (theoTS. NGUYỄN PHƯƠNG DUNG -Khoa Y học cổ truyền, ĐH Y dược TP.HCM).
    5. Nấm mèo-Tên gọi khác: Nấm tai mèo, Nấm Mộc Nhĩ, Vân Nhĩ
      -Tên tiếng Anh: Jew's ear, jelly ear.
      -Tên khoa học: Auricularia auricula-judae (Fr.) J.Schröt.
      -Tên đồng nghĩa: Auricularia auriculaHirneola auricula-judae
      -Các loài tương cận: Auricularia polytrichaA. delicata, A. tenuis, A. emini, A. mesenterica, A. Ornata , A. Cornea, A. Fuscosuccinea.

      Nấm mèo

      Phân loại thực vật

      Giới (regnum):Nấm (Fungi).
      Ngành (divisio):Nấm đảm (Basidiomycota).
      Lớp (class):Nấm tản (Agaricomycetes).
      Bộ (ordo):Mộc nhĩ (Auriculariales).
      Họ (familia):Mộc nhĩ (Auricularaceae).
      Chi (genus):Mộc nhĩ (Auricularia).
      Loài (species):Nấm mèo (Auricularia auricula).

      Phân bố

      Loài nấm mèo phát triển trên thân gổ mục ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên khắp thế giới. Nhiều nhất là ở Đông Nam Á và Trung Quốc. Ở Úc nấm mèo mọc trên gổ bạch đàn mục rữa.

      Mô tả

      Nấm mèo phát tán và sinh sản bằng bào tử. Khi bào tử bám vào giá thể như gổ mục, có đủ dộ ẩm bào tử nẩy mầm. Khuẩn ty là sợi nấm ăn luồn trong các khối gổ, khi hệ sợi nấm phát triển mạnh, đủ nguồn dinh dưỡng thì hình thành tai nấm.
      Tai nấm có dạng một vành tai, thường không cuống, mềm mại khi còn tươi  và cứng dòn khi phơi khô. Mặt trên mũ có lông dày, mỏng hoặc không lông. Màu sắc biến đổi từ trắng, cam, nâu, tím và đen. Nấm mèo mọc được trên các giá thể như gỗ mục, các nguyên liệu có chất xơ.  Tai nấm mèo phát triển qua bốn giai đoạn và được gọi tên theo hình dạng quả thể. Tai nấm có nhiều nếp cong và các gờ giống như tai mèo với nhiều tỉnh mạch nên được gọi là nấm tai mèo hay mộc nhĩ.
      Khi tai nấm già, một số chuyển sang giai đoạn sinh sản, mặt dưới tai nấm có các lớp bào tử màu trắng kem hoặc vàng nhạt. Bào tử hình quả lê, dài 16-18 micromet và ngang 6-8 micromet.

      Thành phần hóa học

      Theo nguồn Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng Hoa Kỳ (USDA), thành phần hóa học trong 100 gam nấm mèo khô như sau: 370 kcal, 10,6 g protein , 0,2 g chất béo , 65 g carbohydrate , 5,8 g tro , canci 375 mg, sắt 185 mg, phospho 201 mg và 0,03 % mg carotene . Nấm tươi chứa độ ẩm 90%.

      Công dụng

      a-Nấm mèo được dùng làm thực phẩm

      Nấm mèo được dùng trong ẩm thực và dược liệu ở Châu Á từ lâu đời, nhưng gần đây mới được đưa vào các món ăn cao cấp ở phương tây.
      Ở Việt Nam nấm mèo là một loại thức ăn rất quen thuộcđặc biệt vào các dịp cỗ bàn ngày Tết, ngày giỗ, cưới...và các món ăn cao cấp trong nhà hàng.
      Nấm mèo được sử dụng rất nhiều trong các món ăn được xào, nấu canh, lẩu thông thường và còn là những thức ăn có bài thuốc dinh dưỡng trị liệu rất tốt.
      Sau đây là một số món ăn từ nấm mèo có bài thuốc dinh dưỡng trị liệu:
      1-Cháo mộc nhĩ: Mộc nhĩ 30g, gạo tẻ 100g, đại táo 5 quả. Có tác dụng nhuận phế, sinh tân, tư ân dưỡng vị, ích khí chỉ huyết, bổ não cường tâm. Dùng cho người suy nhược thần kinh và thể lực, bệnh đường hô hấp (ho khan) các bệnh có chảy máu như trĩ, đại tiểu tiện ra máu, rong kinh do huyết ứ, phụ nữ sau sinh đẻ (theo www. suckhoedoisong.vn).
      2-Canh măng, mộc nhĩ: Măng tre khô 10g, mộc nhĩ trắng 10g, trứng gà, gia vị. Có tác dụng tiêu mỡ ở bụng, chống béo phì (theo www. suckhoedoisong.vn).
      3-Canh mộc nhĩ, thịt lợn: Mộc nhĩ 25g, thịt lợn nạc 150g, rau hẹ 25g, tinh bột nước 10g, nước 1 lít, muối gia vị vừa đủ. Dùng cho phụ nữ sinh đẻ để bồi bổ khí huyết (theo www. suckhoedoisong.vn).
      4-Thịt gà mộc nhĩ chưng cách thủy:Mộc nhĩ 30g, thịt gà 200g. Tác dụng khứ ứ cầm máu ở phụ nữ sau sinh đẻ có “máu hôi” ra liên tục không dứt, cục thâm kèm đau bụng (theo www. suckhoedoisong.vn).
      5-Thịt lợn xào, mộc nhĩ: Mộc nhĩ 50g, thịt lợn nạc 100g. Tác dụng: thanh nhiệt, lợi thấp, cầm đới hạ ở những trường hợp do huyết nhiệt sinh ra rối loạn kinh nguyệt, kinh không đều, kinh nhiều, rong kinh, đau bụng kinh (theo www. suckhoedoisong.vn).
      6-Gan lợn, mộc nhĩ: Mộc nhĩ trắng 20g, gan lợn 240g, táo tầu đỏ (bỏ hột) 2 quả, gừng sống 1 lát. Tác dụng bổ huyết, hoạt huyết. Chữa suy nhược thần kinh (đau đầu, mất ngủ). Phụ nữ kinh nguyệt không đều như bài trên. Dùng tốt cho sản phụ (theo www. suckhoedoisong.vn).
      7-Mộc nhĩ chưng đường phèn: Chữa gan nóng (can nhiệt) miệng khô khát nước, đắng, mắt nhiều nhử nhìn khó, lòng trắng có tia máu (theo www. suckhoedoisong.vn).
      8-Mộc nhĩ đậu đen: Nấu chè cho người già ăn có tác dụng bổ can thận, chữa đau lưng khớp, làm mắt sáng (theo www. suckhoedoisong.vn).
      9Nấm mèo chế biến món ăn thường xuyên: Những người bị các chứng băng huyết, kiết lỵ, táo bón, đường ruột yếu, nên lấy nấm mèo chế biến món ăn thường xuyên để chữa trị rất hay. Có thể dùng nấm mèo nấu chè với hạt sen; hầm với gà; hoặc đem chưng với cao ban long (Theo lương y Phạm Như Tá).

      b-Nấm mèo đuộc dùng làm thuốc

      Theo y học cổ truyền, nấm mèo có công dụng thông lợi ngũ tạng, hoạt huyết, bổ khí tăng sức, nhuận táo lợi trường, giải độc, trừ kiết lỵ, chữa trĩ, bệnh đường ruột. Loại nấm làm thuốc tốt nhất là nấm mèo đen.
      Ở Indinesia cho rằng các món ăn từ nấm mèo có tác dụng bổ máu.
      Tây y cho rằng ăn nấm mèo còn có tác dụng làm giảm cholesterol cấp nói chung, và đặc biệt để giảm mức độ cholesterol xấu.
      Nấm mèo đen có khả năng ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu, phòng chống tình trạng đông máu do nghẽn mạch, ngăn cản sự hình thành các mảng vữa xơ trong lòng huyết quản nên là thức ăn thích hợp cho những người bị bệnh cao huyết áp, xơ vữa động mạch, thiểu năng tuần hoàn não, thiểu năng động mạch vành.

      Một số bài thuốc từ nấm mèo

      1-Trị chảy máu cam: Mộc nhĩ (tốt nhất mọc trên cây dâu) đốt tồn tính tán bột viên thêm nước vo viên nút lỗ mũi (theo www. suckhoedoisong.vn).
      2-Trị trĩ xuất huyết: Mộc nhĩ 6g, hồng khô 30g, nấu chè ăn hằng ngày (theo www. suckhoedoisong.vn).
      3-Trị rong kinh: Mộc nhĩ sao vàng 40g, rễ cây vú bò 20g, củ rau má già 100g, gừng khô 16g. Sắc nước uống (theo www. suckhoedoisong.vn).
      4-Huyết áp cao: Mộc nhĩ 30g (mọc trên cây dâu) ngâm rửa sạch rồi hấp với đường ăn buổi tối trước khi đi ngủ. Dùng nhiều lần (theo www. suckhoedoisong.vn).
      5-Mặt phát ban sậm màu: Mộc nhĩ (cây dâu) đốt tồn tính, chưng nóng uống sau bữa ăn (khi no). (theo www. suckhoedoisong.vn).
      6-Giải độc: Thường dùng giải nấm độc. Sau khi đã gây nôn sắc mộc nhĩ cho uống (theo www. suckhoedoisong.vn).
      7-Cơn đau tim: Chỉ nên dùng hỗ trợ sau khi có xử trí bằng phương pháp y học hiện đại. Dùng nước sắc mộc nhĩ cho uống (theo www. suckhoedoisong.vn).
      8-Đau bụng do giun sán: Sắc mộc nhĩ cho uống hỗ trợ tạm thời. Cơ bản phải cho xổ giun sán (theo www. suckhoedoisong.vn).
      9-Làm thuốc bổ máu: Lấy 20g mộc nhĩ đen (nấm mèo đen), 10 trái hồng táo, cùng một ít đường đỏ đem nấu chung để dùng; dùng 50g táo đỏ, 50g đậu xanh đem nấu chung, rồi cho đường đỏ vào. Mỗi ngày ăn 1 lần, ăn liền 15 ngày trong 1 đợt (theo lương y Vũ Quốc Trung).
    6. Nấm mối
      Nấm mối (ăn được)
      -Tên gọi khác: Nấm đầu gà
      -Tên tiếng Anh: Umbrella Ant FIR, bean chicken mushroom, mushrooms
      -Tên khoa học: Termitomyces albuminosus (Berk.) Heim
      -Tên đồng nghĩa: Termitomyces eurrhizus (Berk.) Heim; Collybia albuminosa
      Phân loại khoa học

      Giới (regnum):Nấm (Fungi)
      Ngành (divisio):Nấm đảm (Basidiomycota)
      Lớp (class):Nấm đảm (Basidiomycetes)
      Phân lớp (subclass):Agaricomycetidae
      Bộ (ordo):Agaricales
      Họ (familia):Lyophyllaceae
      Chi (genus):Termitomyces
      Loài (species):Termitomyces  albuminosus
      Ngành Nấm đảm (Basidiomycota) có khoảng 20.000 loài, trong đó khoảng 98% thuộc Lớp Nấm đảm (Basidiomycetes).
      Nấm mối (Termitomyces albuminosus) là đặc sản nổi tiếng ở Vân Nam, nấm có tán lớn và nhiều thịt nấm màu trắng, thơm và ngon, và đối thủ trứng gà, vì vậy nấm mối được gọi là Termitomyces albuminosus.
      Phân bố
      Nấm mối là loài nấm hoang dại có quan hệ cộng sinh với loài mối trong xác bả hữu cơ đang phân hủy. Chúng xuất hiện ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Châu Á.
      Ở Việt nam chúng xuất hiện trên cả nước và nhiều nhất ở vùng ĐBSCL.
      Ở Trung quốc chúng xuất hiện nhiều ở tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Đài Loan, Giang Tô và những nơi khác.
      Mô tả
      Nấm mối (Termitomyces albuminosus) có nhiều thịt, mùi thơm, ngon, là một trong các loài nấm hoang dã nổi tiếng ăn được, rất phổ biến trên thị trường ở các nước Châu Á. 
      Theo các đặc điểm màu sắc và hình thái học của Nấm mối, chúng được chia thành các phân loài: nấm mối đen, nấm mối trắng và nấm mối vàng. Trong đó nấm mối đen ( có vỏ màu xanh lá cây) là loài nấm mối tốt nhất. Ngoài ra, cơ quan quả thể của nấm có vân hoa là Phân loài có hương vị rất thơm ngon và hiếm gặp.
      Giá trị dinh dưỡng và dược liệu
      -Nấm mối giàu canxi, phốt pho, sắt, protein và các chất dinh dưỡng.
      -Do có hàm lượng phospho cao nên có lợi cho người bệnh tật và người cao tuổi.
      -Ăn Nấm mối thường xuyên có thể cải thiện khả năng miễn dịch chống lại các tế bào ung thư, giảm lượng đường trong máu (theo Y học cổ truyền Trung Quốc).
      -Ăn Nấm mối thường xuyên có lợi cho kinh nguyệt và làn da phụ nữ (theo Y học cổ truyền Trung Quốc).
      Công dụng
      Nấm mối dùng làm rau
      -Ở Trung Quốc: Nấm mối tươi hoặc khô được nấu súp, chiên tươi, hấp, chiên các loại thảo mộc khô. Rửa nấm khô nấu chín, sau đó thêm các thành phần thực phẩm khác để nấu nướng. Thường nấm mối được ăn với thịt rán, nướng, món hầm, súp, thịt gà nướng hoặc hầm để có hương vị pha trộn tốt hơn.
      -Ở Việt nam: Nấm mối có thể được chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn, nhưng có lẽ khoái khẩu nhất là món nấm mối xào chay, xào lá cách nước cốt dừa hay đúc bánh xèo.
      Nấm hái về còn tươi, giòn rụm, nạo sạch đuôi, rửa qua nước muối thật nhanh, chẻ nấm ra làm đôi nếu là nấm mối, còn nấm gạo thì để nguyên. Hành tím đập dập bỏ vào chảo dầu nóng hổi phi vàng, cho nấm vào xào hai phút là chín, nêm chút muối, chút hành ngò, tiêu, trang trí thêm vài lát ớt đỏ... Nào, gắp và nhai thật kỹ, để tận hưởng vị ngọt lựng của hương đất đầu mùa, cảm cái dai dai giòn giòn như thịt gà xé phay của từng thân nấm, nhắp thêm chút cuốc lủi để tự thưởng cho mình cái công lăn lê bò toài khổ cực khi thu hái nấm.
      Ngoài ra, nấm mối còn được dùng chế biến trong các bữa cơm hằng ngày như một loại rau sạch: dùng trộn gỏi với bông điên điển, cải soong, rau tần ô, cần ta. Kho với thịt ba chỉ, cá rô mề hoặc với cá linh. Nấm đã nở tai tròn, chẻ ba đem ướp tỏi, gia vị nướng cùng hải sản. Hoặc dùng kèm với bánh xèo, lẩu nấm là một món ngon cao cấp.
      Có một bí quyết thuộc loại gia truyền để xào món nấm này được ngon. Đó là phải rửa nấm thật nhanh và phải xào trên lửa lớn. Rửa nhanh cho nấm không ngậm nước, xào lửa lớn cho nấm không bị ra nước, giữ được chất ngọt tự nhiên trong thân nấm.
      Cũng làm như vậy, nhưng nếu ta cho thêm lá cách và nước cốt dừa vào món nấm thì mọi chuyện sẽ khác. Vị thơm thanh thoát của lá cách, vị béo ngậy của nước cốt dừa, màu trắng nõn sữa của nấm, màu xanh ngăn ngắt của lá cách, màu đỏ của ớt... tất cả hòa quyện làm món ngon vừa bắt mắt, vừa bắt miệng.
      Độc nhất vẫn là món nấm mối đúc bánh xèo. Thay vì dùng nhân tôm, hay thịt ba rọi, người ta chỉ cần nấm mối là đủ làm nên sự hấp dẫn của một món ăn trong những ngày mưa. Bột gạo pha với bột nghệ, bột đậu xanh cho có màu rồi múc đổ vào chảo mỡ nóng hổi, thêm vài tai nấm mối, nghe bánh reo xèo xèo vui tai mà lại thơm nức... Khi bánh chín, giòn tan béo ngậy, ăn nóng với các loại rau vườn như xoài, gừng thái chỉ, cải non...
      Nấm mối dùng làm thuốc
      Cây thuốc cho phái nữ
      Theo y học cổ truyền, các loại nấm đều có tác dụng chữa bệnh nhưng giá trị dược liệu không thể vượt qua nấm mối. Nấm mối có giá trị về mặt dinh dưỡng cao đồng thời còn chữa được nhiều bệnh như ung thư tế bào máu, phổi, gan, thận. Theo một nghiên cứu của bác sĩ Christine Dzerko, chuyên gia nội tiết trung tâm y khoa phụ nữ Austin Texas, thực hiện với 1.475 bệnh nhân trong 60 tuần cho thấy, xác suất trị liệu ung thư vú từ nấm mối đối với phụ nữ và người béo phì đạt mức 92,45%.
      Mỹ phẩm và dược phẩm
      Gần đây, các nhà nghiên cứu mỹ phẩm ở Osaka (Nhật Bản) đã cho ra thị trường loại mỹ phẩm kết hợp các hoạt chất chiết xuất từ nấm mối, nha đam, rau bồ ngót, bí đỏ, dùng cho làn da bị dị ứng, nhất là da phụ nữ, trẻ em, vốn dễ có nguy cơ bị viêm nhiễm do các tia hồng ngoại từ nắng mặt trời gây nám da, rám và ung thư da.
      Ngoài ra, tạp chí Trung y lâm sàng cũng khẳng định, nấm mối có hàm lượng dinh dưỡng tự nhiên (từ nước bọt mối chúa và các vi sinh thực vật tạo thành) giúp tăng sức đề kháng trong cơ thể; chống lão hóa, phát triển chất interferon có khả năng ức chế tối đa sự sinh trưởng của các loại virus, đồng thời giúp ngăn ngừa và giảm tỷ lệ phát triển của các tế bào ung thư.
      Phụ nữ từ 28-40 tuổi sau sinh, hoặc cho con bú nhiều, ăn nấm mối sẽ giúp phòng ngừa ung thư vú vì nấm giàu chất xơ, sạch và là thuốc bổ âm, bổ máu, vận thông kinh mạch, giúp thải độc cho cơ thể.
      Các bài thuốc từ Nấm mối
      1-Dùng 15 cây nấm mối (50-60gr), 30 lá cách non, 10gr lá ngải cứu. Rửa sạch, nấu với 100gr bí đỏ hoặc bí đao (cả vỏ) trong 0,5 lít nước, còn 250ml. Ăn cả ngày. Giúp tăng cường hệ miễn dịch, ngừa sỏi thận, sỏi mật và giảm cholesterol, hạ huyết áp. Phù hợp cho người thiếu sắt, tiểu đường. (Theo Lương y Dương Tấn Hưng).
      2- Dùng 150gr nấm mối (tai đã nở), 100gr thịt nạc bò (hoặc gan heo), 50gr khoai sọ, 50gr bông cúc vàng. Nấu trong 350ml nước còn 150ml, chia 3 phần, ăn trong ngày. Liên tục 2 tuần. Dùng cho người lao động trí óc biếng ăn, hay mệt mỏi, phụ nữ thiếu sữa, suy giảm bạch cầu, cải thiện chức năng tuyến tụy và tăng sức lực. (Theo Lương y Dương Tấn Hưng).
      3- Dùng 200gr nấm mối, 250gr xương ống hoặc chân giò heo, 10 quả hồng khô (mứt hồng), 5gr mật ong. Nấu trong 350ml nước, sau khi sôi 30 phút nhắc xuống, thêm 5gr lá thì là. Ăn cả xác và nước trong ngày. Liên tục 10 ngày. Giúp chữa cao huyết áp, bồi dưỡng cơ thể cho phụ nữ sinh xong mất sức, giảm cân. (Theo Lương y Dương Tấn Hưng).
      4- Dùng 150gr nấm mối, 10 quả chuối hột già còn xanh vỏ, xắt lát mỏng, 30gr kim tần thảo, 60gr rễ cỏ tranh, 30gr lá, bông mã đề. Nấu trong 0,5 l nước còn 250ml, chia 5 phần, uống trong ngày. Liên tục 4 tuần. Giúp chữa sỏi mật, sỏi thận, giảm tế bào xấu gây ung thư máu, đồng thời giúp cho việc ăn uống dễ tiêu, ngon miệng, dễ ngủ. (Theo Lương y Dương Tấn Hưng).
    7. Nấm mỡ
      Nấm mỡ mọc hoang dại

      Nấm mỡ trồng
      -Tên gọi khác: Nấm trắng, nấm khuy.
      -Tên tiếng Anh: the common mushroom, button mushroom,white mushroom,  table mushroom, champignon mushroom, crimini mushroom.
      -Tên khoa học: Agaricus bisporus (J.E.Lange) Emil J. Imbach.
      -Tên đồng nghĩa: Psalliota bispora.
      -Các loài tương cận:
       A. campestris (Nấm ăn được);
       A. bitorquis (Nấm ăn được);
       A. xanthodermus (Nấm độc);
       A. aurantioviolaceus (Nấm độc).

      Phân loại khoa học


      Giới (Kingdom):Nấm (Fungi)
      Ngành (Phylum):Nấm Đảm (Basidiomycota)
      Lớp (Class):Nấm tản (Agaricomycetes)
      Phân lớp (Subclass):Homobasidiomycetidae
      Bộ (Order):Agaricales
      Họ (Family):Agaricaceae
      Chi (Genus):Agaricus
      Loài (Species):Agaricus bisporus

      Loài nấm mỡ (Agaricus bisporus) có lịch sử phân loại phức tạp . Nó lần đầu tiên được mô tả bằng tiếng Anh vào năm 1871 bởi nhà thực vật học người Anh Mordecai Cubitt Cooke (1825-1914) với tên Agaricus campestris var. hortensis . Sau đó nhà nấm học Đan Mạch Jakob Emanuel Lange (1864-1941) đổi tên thành Psalliota hortensis var bispora vào năm 1926. Năm 1938, nó đã được nâng lên cấp loài với tên là Psalliota bispora. Tên hiện tại Agaricus bisporus , được gọi chính thức từ năm 1946.
      Nấm mỡ còn được dịch từ tên tiếng Anh sang tiếng Việt là nấm nút, nấm nút trắng, nấm bảng, nấm nâu Ytali…

      Phân bố

      Nấm mỡ (Agaricus bisporus) là một loài nấm ăn được có nguồn gốc từ vùng đồng cỏ ở Châu Âu và Bắc Mỹ . Trong tự nhiên loài này mọc hoang trên các đồng cỏ có nhiều hữu cơ trong mùa mưa.
      Từ năm 1990 loài nấm này được trồng tại hơn 70 quốc gia với sản lượng thương phẩm hơn 1,5 triệu tấn và giá trị hơn 2 tỷ USD. Đây là một trong những loài nấm trồng phổ biến nhất và tiêu thụ rộng rãi trên thế giới.
      Ở Việt Nam nấm mỡ được các Công ty du nhập và trồng nhiều sau năm 2000.

      Mô tả

      Nấm mỡ hoang dại có mũ nấm màu xám-nâu nhạt, đường kính mũ nấm 5-10 cm. Thân nấm hình trụ cao 5-6 cm. Với các chủng nấm trồng được lựa chọn có màu sáng hơn.
      -Mũ nấm: Mũ nấm khởi đầu có hình một cái khuy áo với mũ vun tròn, màu trắng và đôi khi có những vẩy nhỏ, có hình bán cầu, thịt dầy, màu trắng sáng. Lúc đầu lồi, sau đó phẳng dần, đường kính mũ nấm 5-10 cm. Phía dưới mũ nấm là các vách sản sinh bào tử hẹp, bào tử ban đầu màu hồng sau đó chuyển thành màu đỏ và cuối cùng chuyển thành màu sôcola. Không nên ăn nấm già khi bào tử đã chuyển sang màu đậm.
      Màu sắc mũ phổ biến là màu trắng, mặt đưới mũ có màng che các phiến, khi già màng che bị rách, các phiến sẽ chuyển từ trắng sang đen, đó cũng là màu của bào tử. Tai trưởng thành xoè ra hình tán dù.
      -Bào tử: Hình trứng gần tròn, kích thước 4-7,5 x 4-5.5μm. Màu nâu sôcola.
      -Cuống nấm: Cuống rắn chắc, đặc tròn và ngắn.Cao 3 - 6cm cao và dầy 1,5-2cm.
      Đây là loài nấm trồng, ít gặp sống nơi hoang dại. Tuy nhiên khu vực gần các trang trại trồng nấm, dạng mọc hoang dại ngày càng phổ biến.
      -Sinh thái: nấm mỡ có nguồn gốc ôn đới. Nhiệt độ thích hợp trong giai đoạn hệ sợi phát triển là 24-25oC, giai đoạn hình thành cây nấm là 16-18oC. Độ ẩm trong cơ chất từ 55-65%. Độ ẩm không khí ≥ 80%. Độ pH = 6 - 7. Ánh sáng: không cần kể cả khi ra quả thể. Độ thông thoáng: vừa phải.

      Thành phần hóa học

      Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) trong 100 gam nấm mỡ có có các thành phần dinh dưỡng như sau:

      Năng lượng
      94 kJ (22 kcal)
      Carbohydrates
      3,28 g
      1,65 g
      1,0 g
      Chất béo
      0,34 g
      Protein
      3,09 g
      Nước
      92,43 g
      Thiamine (vit. B 1 )
      0,081 mg (7%)
      Riboflavin (vit. B 2 )
      0,402 mg (34%)
      Niacin (vit. B 3 )
      3,607 mg (24%)
      Pantothenic acid (B 5 )
      1,497 mg (30%)
      Vitamin C
      2,1 mg (3%)
      Sắt
      0,50 mg (4%)
      Nguồn: USDA Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng

      Công dụng

      a- Nấm mỡ dùng như một loại rau cao cấp

      -Nấm mỡ được dùng để xào: Nấm mỡ được dùng để xào với thịt, điển hình như:
      1-Nấm mỡ xào đùi ếch: Nấm mỡ 200 g, đùi ếch 100 g, hành, gừng tươi, tỏi, hạt tiêu, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Đùi ếch bỏ da, rửa sạch, rán non; nấm mỡ bổ đôi, chần qua nước sôi, để ráo nước. Phi hành tỏi cho thơm rồi xào lẫn đùi ếch với nấm, chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng: Ích vị kiện tỳ, lý khí hóa đàm, thanh nhiệt lợi niệu.
      2-Nấm mỡ xào tôm: Nấm mỡ 200 g, tôm tươi 500 g, cà rốt, măng củ, hành, gừng tươi, dầu thực vật, bột đao và gia vị vừa đủ. Nấm rửa sạch, khía hình chữ thập trên mũ, chần qua nước sôi, để ráo nước; tôm bóc vỏ, bỏ đầu, rửa sạch, ướp nước gừng và gia vị; cà rốt và măng củ rửa sạch, thái mỏng. Phi hành cho thơm rồi xào lẫn tôm với cà rốt và măng trước, kế đó cho nấm vào, đun to lửa một lát là được, chế đủ gia vị. Công dụng: Bổ thận tráng dương, kiện tỳ ích vị, hóa đàm tiêu thực.
      3-Nấm mỡ xào đậu phụ, măng:
      Nấm mỡ 150 g, đậu phụ 300 g, măng củ 100 g, nước dùng (nước luộc gà hoặc nước ninh sườn) 200 ml, hành, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Nấm rửa sạch, bổ đôi, chần qua nước sôi; măng thái mỏng; đậu phụ xắt miếng nhỏ.
      Tất cả cho vào nồi, chế đủ gia vị, đổ nước dùng vào đun sôi chừng 10 phút là được. Công dụng: Kiện tỳ ích vị, sinh tân nhuận táo, thanh nhiệt giải độc.
      4-Nấm mỡ xào lòng lợn:
      Nấm mỡ 350 g, lòng non lợn 500 g, hành, tỏi, gừng tươi, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Lòng non làm sạch, cắt đoạn chừng 2 cm, gừng thái phiến, hai thứ cho vào nồi áp suất đun trong 2 phút rồi lấy ra, để ráo nước; nấm mỡ rửa sạch, chần qua nước sôi.
      Phi hành tỏi cho thơm rồi xào nấm với lòng non, chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng: Kiện vị tiêu thực, hóa đàm, thanh tràng, chỉ huyết.
      -Nấm mỡ được dùng trong các món nấu, lẫu:
      Trong các món nấu như canh, súp có món nấm mỡ rất hợp khẩu vị cho người Châu Á, Châu Phi cũng như Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc.
      Nói chung nấm mỡ là loại thực phẩm quốc tế, được nhiều nước ưa chuộng.

      b-Nấm mỡ dùng như vị thuốc

      +Theo Đông y: Nấm mỡ vị ngọt, tính mát, có công dụng bổ tỳ ích khí, nhuận phế hoá đàm, tiêu thực lý khí, rất thích hợp cho những người chán ăn mệt mỏi do tỳ vị hư yếu, sản phụ thiếu sữa, viêm phế quản mạn tính, viêm gan mạn tính, hội chứng suy giảm bạch cầu…
      Sách “Bản thảo cương mục” viết: Nấm mỡ có tác dụng “ích tràng vị, hoá đàm lý khí”. Sách Y học nhập môn thì cho rằng nấm mỡ có khả năng “duyệt thần, khai vị, chỉ tả, chỉ ẩu” (làm cho tinh thần sảng khoái, kích thích tiêu hoá, cầm ỉa chảy và cầm nôn).
      +Theo Tây y: Nấm mỡ có những giá trị dược liệu được Tây y xác định:
      1-Nấm mỡ (A. bisporuschứa natri , kali , phốt pho , axit linoleic liên hợp và chất chống oxy hóa, Protocatechuic axit và pyrocatechol được tìm thấy.
      2-Nấm mỡ cũng đã được chứng minh là có thể tăng cường hệ thống miễn dịch. Nghiên cứu trong ống nghiệm đã chứng minh nấm tăng cường chức năng tạo thành tế bào đuôi gai (tế bào miễn dịch)…
      Cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan cũng đã từng điều trị bằng nấm mỡ Blazei để chiến thắng căn bệnh ung thư da và qua sự kiện đó, hiệu quả dược học của nấm này đã được cả thế giới biết đến. (nguồn: Việt Báo).
      Trong năm 2009 một thí nghiệm nghiên cứu 2.018 phụ nữ bệnh cho thấy nhóm có ăn nấm mỡ tươi mỗi ngày có tỷ lệ 64% không có khả năng phát triển bệnh ung thư vú và nhóm có ăn nấm mỡ hàng ngày kết hợp với uống nước trà xanh hường xuyên có 90% không có khả năng phát triển bệnh ung thư vú.
      3-Theo dược lý học hiện đại, nấm mỡ có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn và trực khuẩn coli. Các nhà khoa học Nhật Bản đã chiết xuất từ nấm mỡ ra một chất, được gọi là PS – K, có công dụng kháng ung thư, nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, khảo nghiệm trên lâm sàng đối với ung thư vú và ung thư da thấy có hiệu quả khá tốt.
      4-Trong vài năm gần đây, người ta cũng đã nhận thấy việc dùng nấm mỡ làm thức ăn hàng ngày hoặc thường xuyên uống nước sắc loại nấm này có thể trị liệu viêm gan mạn tính và chứng giảm thiểu bạch cầu, hiệu quả đặc biệt nâng cao khi dùng kết hợp với ngũ vị tử, có thể đạt tới 73%. Ngoài ra, nấm mỡ còn có tác dụng làm giảm đường máu, hạ nồng độ cholesterol trong huyết thanh và cải thiện chức năng tuyến tuỵ. Bởi vậy, nấm mỡ là một trong những thực phẩm lý tưởng dành cho những người bị bệnh tim mạch, đái đường, ung thư và bệnh lý tuyến tuỵ.
      5-Một số nghiên cứu đã tiết lộ rằng Nấm mỡ (A. bisporus) - cùng với một số nấm ăn được khác - có chứa một lượng nhỏ các chất dẫn xuất gây ung thư hydrazine , bao gồm agaritine và gyromitrin. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng lưu ý khi nấu chín, các hợp chất đã được giảm đáng kể.
    8. Nấm rơm-Tên gọi khác:Nấm mũ rơm
      -Têm tiếng Anh: Straw mushroom, Paddy straw mushroom.
      -Tên khoa học: Volvariella volvacea (Bulliard ex Fries) Singer.
      -Tên đồng nghĩa: Volvaria volvaceaAgaricus volvaceusAmanita virgata,  Vaginata virgata.

      Phân loại khoa học

      Giới (regnum):Nấm (Fungi).
      Ngành (divisio):Nấm đảm (Basidiomycota)
      Lớp (class):Nấm tán (Agaricomycetes).
      Bộ (ordo):Nấm tán (Agaricales).
      Họ (familia):Nấm lớn (Pluteaceae).
      Chi (genus):Nấm rơm (Volvariella).
      Loài (species):Volvariella volvacea

      Phân bố

      Nấm rơm (Volvariella volvaceacó nguồn gốc ở Đông và Đông Nam Á. Phân bố  ở vùng nhiệt đới thuộc Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Úc.

      Mô tả

      Nấm rơm hay nấm mũ rơm là một loài nấm trong họ nấm lớn sinh trưởng và phát triển từ các loại rơm rạ. Nấm gồm nhiều loài khác nhau, có đặc điểm hình dạng khác nhau như có loại màu xám trắng, xám, xám đen… kích thước đường kính “cây nấm” lớn, nhỏ tùy thuộc từng loại.
      Về cấu tạo một quả thể của nấm rơm gồm có:
      -Bao gốc (volva): Dài và cao lúc nhỏ, bao lấy tai nấm. Khi tai nấm trưởng thành, nó chỉ còn lại phần trùm lấy phần gốc chân cuống nấm, bao nấm là hệ sợi tơ nấm chứa sắc tố melanin tạo ra màu đen ở bao gốc. Độ đậm nhạt tùy thuộc vào ánh sáng. Ánh sáng càng nhiều thì bao gốc càng đen.
      -Cuốn nấm: Là bó hệ sợi xốp, xếp theo kiểu vòng tròn đồng tâm. Khi còn non thì mềm và giòn. Nhưng khi già xơ cứng và khó bẻ gãy.
      -Mũ nấm: Hình nón, cũng có melanin, nhưng nhạt dần từ trung tâm ra rìa mép.
      Quá trình tạo thành quả thể nấm rơm gồm 6 giai đoạn: (1)-Đầu đinh ghim (nụ nấm), (2)-Hình nút nhỏ, (3)-Hình nút, (4)-Hình trứng, (5)-Hình chuông (kéo dài), 6)-Trưởng thành (nở xòe).
      Chu kỳ sinh trưởng và phát triển của nấm rơm rất nhanh chóng (10-12 ngày). Những ngày đầu nấm nhỏ như hạt tấm có màu trắng (giai đoạn đinh ghim), 2-3 ngày sau lớn rất nhanh bằng hạt ngô, quả táo, quả trứng (giai đoạn hình trứng), lúc trưởng thành (giai đoạn phát tán bào tử) trông giống như một chiếc ô dù, có cấu tạo thành các phần hoàn chỉnh.
      Ở các quốc gia vùng nhiệt đới rất thích hợp về nhiệt độ để nấm rơm sinh trưởng và phát triển. Nhiệt độ thích hợp để nấm phát triển từ 30-32oC; độ ẩm nguyên liệu (cơ chất) 65-70%; độ ẩm không khí 80%; pH = 7, thoáng khí. Nấm rơm sử dụng dinh dưỡng cellulose trực tiếp từ nguyên liệu trồng.

      Thành phần hóa học

      Nấm rơm là loại nấm giàu dinh dưỡng, trong 100g nấm rơm tươi chứa: 90% nước, 3,6% đạm, 0,3% chất béo, 3,2% chất đường, 1,1% chất xơ (cellulose), 0,8% tro, 28mg% Ca, 80mg% P, 1,2% Fe, các vitamine A, B1, B2, C, D, E, PP.. Ngoài ra, nấm rơm còn chứa 7 loại a-xít amin mà cơ thể không tổng hợp được. Cứ 100g nấm rơm tươi cho cơ thể 31 calorie.
      Trong 100 gam nấm rơm khô chứa: Chất đạm tới 21 -37g , đặc biệt thành phần đạm chứa hàm lượng cao lại đầy đủ các acid amin cần thiết mà cơ thể không tự tổng hợp được, còn hơn cả thịt bò và đậu tương, chất béo 2,1 - 4,6g, chất ột đường 9,9g, chất xơ 21 gam, các nguyên tố vi lượng là Ca, Fe, P. Nhiều vitamin như vitamin A, B1, B2, PP, D, E, C, riêng vitamin C chiếm đến 160mg/100gr.

      Công dụng

      Do quả thể nấm rơm mềm, xốp, chứa nhiều a xít amin và vitamin nên nấm rơm có nhiều giá trị trong dinh dưỡng và dược liệu, là loại quen thuộc, nhất là các làng quê vì thường được sử dụng làm thực phẩm, nấm rơm còn là món ăn trị nhiều bệnh.
      Là loại giàu dinh dưỡng như vậy, nấm rơm có thể chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu như xào với thịt lợn, thịt bò, nấu canh, nấu lẩu, kho với thịt lợn, hầm với thịt gà, kho chay, nướng với lươn…

      a- Nấm rơm được dùng như loài rau thực phẩm

      1-Nấm rơm dùng nấu cháo: Cháo nấm rơm có tác dụng giải cảm và bổ dưỡng.
      2-Nấm rơm dùng để nấu canh: Nấm rơm dùng để nấu canh chung với các loại rau khác làm tăng hương vị và bổ dưỡng.
      3-Nấm rơm xào, nấu: Nấm rơm xào, nấu chung với nhiều thực phẩm khác làm tăng khẩu vị và chất lượng.
      4-Nấm rơm dùng để nấu lẩu: Nấm rơm được xem như một loại thực phẩm cao cấp đượng dùng để nấu các món lẩu ngọt.

      b-Nấm rơm được dùng làm thuốc

      -Theo Đông y cho rằng nấm rơm có vị ngọt, tính hàn có công năng bổ tỳ, ích khí, tiêu thực, khử nhiệt, tăng sức đề kháng, có khả năng kháng ung thư và làm hạ cholesterol máu. Nên trong những ngày hè oi bức thật sự là những món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng cho sức khỏe nhờ giàu dinh dưỡng và giàu dược tính. Chính vậy nấm rơm được sử dụng trị liệu hiệu quả nhiều chứng bệnh.
      -Theo Tây y nấm rơm có thể chế thành thực phẩm chức năng, đặc biệt y học đã biết sử dụng nấm rơm trong các món ăn thuốc để hỗ trợ chữa nhiều bệnh chứng như các chứng bệnh rối loạn chuyển hóa: béo phì, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, đái tháo đường, tăng huyết áp... Người ta còn tán nấm thành bột làm viên chữa chứng thiếu máu.

      Các bài thuốc từ nấm rơm

      1-Chữa di hoạt tinh, sinh lý yếu: Nấm rơm xào cùng tôm càng, rau dền ăn ngày 1 lần vào bữa ăn thường. Trong 5 - 7 ngày là một liệu trình (Theo Báo SK&ĐS).
      2-Có tác dụng kích dục, cường dương: Nấm rơm xào với thịt chim sẻ, thịt ếch, ăn ngày 1 lần (Theo Báo SK&ĐS).
      3-Bồi bổ, tăng sức khỏe: Canh nấm rơm (200g) nấu với đại táo (5 - 7 quả), ăn ngày 1 lần. Ăn 5 - 7 ngày liền (Theo Báo SK&ĐS).
      4-Phòng chống ung thư, bổ tỳ vị: Nấm rơm nấu với đậu phụ ăn ngày một lần, thường xuyên ăn càng tốt (Theo Báo SK&ĐS).
      5-Bổ gan thận, ích khí, tăng sức: Nấm rơm xào với trứng bồ câu hay trứng chim cút. Ngày ăn 1 lần (Theo Báo SK&ĐS).
      6-Tăng cường sức khỏe, bổ gan thận, ích khí huyếtNấm rơm xào cùng với trứng chim cút hoặc trứng chim bồ câu, ăn hết. Ăn liền 5 – 7 ngày (Theo BS Hoàng Xuân Đại).
      7-Chữa gan nhiễm mỡ: 100g nấm rơm tươi xào với 5 quả trứng cút, dùng vào bữa ăn tối. Mỗi liệu trình trong 15 ngày (Theo Sức khỏe và đời sống).
      8-Chữa cơ thể suy nhược, suy giảm trí nhớ: Nấm rơm tươi 150g, trứng chim bồ câu hoặc trứng chim cút (bỏ vỏ) 20 quả, các gia vị: bột canh, hành, gừng, dầu ăn, mì chính vừa đủ. Các thứ trên có thể làm thành món xào hoặc  làm canh dùng để ăn. Hàng tuần nên ăn 2 lần. Thực hiện trong 3 tháng (Theo Sức khỏe và đời sống).
      9-Hỗ trợ chữa ung thư: Nấm rơm tươi 100g, đậu phụ 50g, nấu thành canh ăn trong các bữa cơm. Nên dùng thường xuyên trong các đợt xạ trị hóa chất (Theo Sức khỏe và đời sống).
      10-Hỗ trợ điều trị các vết lở loét khó kín miệng: Nấm rơm tươi 60g, nấm đầu khỉ 60g, rửa sạch, thái ra xào chung để ăn. Dùng trong 7-10 ngày (Theo Sức khỏe và đời sống).
      11-Chữa xuất tinh sớm: Nấm rơm 100g, tôm nõn 50g, rau dền 30g, các gia vị: mì chính, dầu ăn, hành, bột canh... vừa đủ. Các nguyên liệu trên nấu thành canh hoặc xào dùng trong các bữa ăn. Mỗi tháng nên thực hiện trong 10-15 ngày (Theo Sức khỏe và đời sống).
    9. Nấm thông          -Tên gọi khác: Nấm mỡ Ba Tư
                  -Tên tiếng Anh: Bolete King
                  -Tên khoa học: Boletus edulis Bull.
                  -Tên đồng nghĩa: Boletus solidus Sowerby, Ceriomyces crassus Batta., 
                   Dictyopus edulis (Bull.) Forq., Leccinum edule (Bull.) Gray.

      Nấm thông

      Phân loại khoa học

      Giới (regnum):
      Nấm (Fungi)
      Ngành (divisio):
      Nấm đảm (Basidiomycota).
      Lớp (class):
      Nấm tản (Agaricomycetes).
      Phân lớp (subclass):
      Nấm tản (Agaricomycetidae).
      Bộ (ordo):
      Nấm mỡ (Boletales).
      Họ (familia):
      Nấm thông (Boletaceae).
      Chi (genus):
      Nấm thông (Boletus).
      Loài (species):
      Nấm thông: Boletus edulis
      Phân loài (subspecies):
      B. edulis subsp. aurantioruber
      B. edulis var. arcticus
      B. edulis var. clavipes
      B. edulis var. ochraceus
      B. edulis var. pusteriensis

      Các loài tương cận: Loài nấm thông (Boletus edulis) có nhiều phân loài.

      Phân bố

      Nấm thông (Boletus edulis) là một loại nấm ăn được trong chi Nấm thông, họ Nấm thông. Nấm thông được phân bố trên các vùng khí hậu ôn đới và cận nhiệt đới thuộc Châu Á, châu Âu và Châu Mỹ. Mọc thành các đám nhỏ trên mặt đất, đặc biệt trên đất rừng thông. Ngoài ra nấm thông có thể phát triển trên những bải cỏ dưới tán cây phi lao, vâm sam…
      Nấm thông là một trong những loài nấm ăn được quan trọng mọc hoang dại, được đem buôn bán trên thế giới, ở Đông Âu và Italia thường xuất khẩu dưới dạng phơi khô hoặc muối.
      Ở Việt nam Nấm thông phân bố trên vùng cao nguyên nơi có nhiều rừng thông sinh sống như Bắc Giang (Yên Dũng), Lâm Đồng (Đà Lạt).
      Nhân dân Đà Lạt thường thu hái, chẻ nhỏ, phơi khô để bán cho các nhà hàng ăn nổi tiếng ở TP Hồ Chí Minh.
      Loài nấm thông đang gặp nguy cấp. Do rừng thông bị phá hoại nghiêm trọng. Mức độ đe doạ: Bậc V, được ghi vào Sách đỏ ở nhiều nước trên thế giới và được ghi vào Sách đỏ ở Việt Nam- trang 431.
      Là đối tượng bảo vệ trong hệ sinh thái tự nhiên của một số khu rừng thông.

      Mô tả

      Nấm thông là loài nấm ăn được với hương vị rất ngon và có quả thể lớn, có các đặc điểm như sau:
      -Tơ nấm là những sơi khuẩn ty màu trắng bóng phát triển trong khối đất giàu hữu cơ có ở những bải cỏ hay tán rừng có nguồn lá và gổ thông.
      -Cuống nấm gần hình trụ, phần gốc hơi phình to, dài 7 - 12cm, đường kính ở phần gần mũ 2 – 3 cm.
      -Lỗ (hymenophore) phát triển trên cuống nấm, lúc còn non các miệng lỗ màu trắng, khi lớn lên chuyển thành màu vàng và khi nấm già mang những túi bào tử màu hình hạt đậu màu xanh lá cây.
      -Mũ nấm (pileus)  hình bán cầu dẹt, không dính, màu từ vàng mật ong đến màu hạt dẻ, có đường kính 8 – 15 cm, thịt dầy, khi non màu trắng, sau màu vàng lục, miệng nhỏ, mỗi milimét có từ 2 - 3 ống. Phần sống quanh Cuống hơi lõm.
      -Bào tử đảm màu vàng, nhẵn, hình trụ, dài 12 - 17 mm, rộng 4,5 - 5,5mm. Các túi bào tử đóng thành lớp dày bên dưới mũ nấm và tỏa hương thơm rất dể chịu.
      Khi cây nấm đẩy sức vừa ăn bên ngoài có màu vàng nâu đến nâu nhưng thịt nấm bên trong màu trắng và xốp.
      Những phân loài của nấm này rất khác nhau ở màu sắc.Cần nghiên cứu phân loại nhóm nấm này cho chính xác hơn. Ở Châu Âu hình tượng của loài nấm này thường được vẽ trong tranh và trong các tác phẩm điêu khắc.
      Ở Việt Nam nấm thông phát triển mạnh trong rừng thông vào các tháng 4-10 trong mùa mưa.

      Công dụng

      Nấm thông hay Bolete King có thịt nấm ăn rất ngon, là loài nấm rừng rất được ưa thích ở nhiều nước trên thế giới. Ở Nga và Châu Âu người ta nghiên cứu trồng nấm này trên nguyên liệu bột gổ thông rất thành công. Hiện nay nấm thông hoang dại và được trồng có giá rất cao ở Châu Âu.
      Trong nấm thông có chất tinh dầu ameliorates có vị đắng nhẹ là đặc trưng hương vị của nấm. Nấm còn non dùng nguyên quả thể rử sạch để xào, nấu. Nấm già có thể gọt bỏ phần vỏ cứng trên mũ nấm và ở chân trước khi xào, nấu.
      Nấm thông được dùng nấu các món súp ở Châu Âu, ở Việt Nam được dùng để xào và nấu lẩu trong các nhà hàng hạng sang. Loài nấm này có thể xắt nhỏ phơi khô hoặc xấy để tồn trữ để ăn lâu dài.

    10. Nấm tràm
                      1. Bồng bồng
                      2. Cây bồn bồn
                      3. Lục bình
                      4. Móp gai
                      5. Rau bợ
                      6. Rau dừa (nước)
                      7. Rau muống
                      8. Rau muống tiến vua
                      9. Rau mác
                      10. Rau ngỗ
                      11. Rau nhút
                      12. Rau ráng
                      13. Rau đắng biển
                                              1. Bông so đủa
                                              2. Cây bưởi
                                              3. Cây bần chua
                                              4. Cây bần ổi
                                              5. Cây bứa
                                              6. Cây chùm ruột
                                              7. Cây chồi mòi
                                              8. Cây cà na
                                              9. Cây cóc Miền Nam
                                              10. Cây dâu tằm
                                              11. Cây khế
                                              12. Cây khế tàu
                                              13. Cây lộc vừng
                                              14. Cây me
                                              15. Cây mít
                                              16. Cây sấu
                                              17. Cây xoài
                                              18. Cây điều
                                              19. Cây đu đủ
                                              20. Cây ổi
                                              21. Lá cách
                                              22. Lá đọt mọt
                                              23. Lá đọt sộp
                                              24. Rau sắng
                                              25. Vông nem
                                                                                              1. Cây Hibiscus (Hồng hoa)
                                                                                              2. Cây thần kỳ
                                                                                                1. Cây rượu trời cho
                                                                                                2. Cây Trường Sơn đệ nhất tửu
                                                                                                  1. Cây khoai lang
                                                                                                  2. Rau càng cua
                                                                                                  3. Rau dệu
                                                                                                  4. Rau má
                                                                                                  5. Rau sam
                                                                                                  6. Rau trai
                                                                                                  7. Rau đắng đất
                                                                                                              1. Cây chuối
                                                                                                              2. Cây sắn (khoai mì)
                                                                                                              3. Măng tre
                                                                                                              4. Rau lá bép
                                                                                                                    1. Chanh dây
                                                                                                                    2. Câ đậu đũa
                                                                                                                    3. Cây củ mài
                                                                                                                    4. Cây củ nâu
                                                                                                                    5. Cây khoai mỡ
                                                                                                                    6. Cây khoai từ
                                                                                                                    7. Cây lá giang
                                                                                                                    8. Cây mướp rồng Nhật Bản
                                                                                                                    9. Cây mướp rừng
                                                                                                                    10. Cây su su
                                                                                                                    11. Cây sắn dây
                                                                                                                    12. Dây củ đậu (củ sắn)
                                                                                                                    13. Dây cứt quạ
                                                                                                                    14. Dây mướp
                                                                                                                    15. Dây mướp khía
                                                                                                                    16. Dây sương sâm
                                                                                                                    17. Dây tiêu
                                                                                                                    18. Dây trái giác
                                                                                                                      Dây trái giác

                                                                                                                      Trái giác

                                                                                                                      -Tên gọi khác: Dây vác, Dây sạt
                                                                                                                      -Tên tiếng Anh: Three-leaf cayratia, Slender watervine.  
                                                                                                                      -Tên khoa học: Cayratia trifolia (L.) Domin
                                                                                                                      -Tên đồng nghĩa:
                                                                                                                      Vitis trifolia L.
                                                                                                                      Cissus trifolia (L.) K. Schum.
                                                                                                                      -Các loài tương cận:
                                                                                                                      Cayratia acris (F. Muell.) Domin 
                                                                                                                      Cayratia debilis (Baker) Suess. 
                                                                                                                      Cayratia geniculata (Blume) Gagnep. 
                                                                                                                      Cayratia japonica (Thunb.) Gagnep. 
                                                                                                                      Cayratia trifolia (L.) Domin

                                                                                                                      1-Phân loại khoa học (Scientific classification)


                                                                                                                      Bộ (ordo):
                                                                                                                      Nho (Vitales)
                                                                                                                      Họ (familia):
                                                                                                                      Nho (Vitaceae)
                                                                                                                      Chi (genus):
                                                                                                                      Cayratia
                                                                                                                      Loài (species):
                                                                                                                      Cayratia trifolia 

                                                                                                                      2-Nguồn gốc và phân bố

                                                                                                                      Chi Giác (Cayratia) bao gồm khoảng 45 loài thực vật, một số trong đó có giá trị tiện ích cho người dân. Nó được tìm thấy ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á, châu Phi, Australia và các đảo của Thái Bình Dương.
                                                                                                                      Loài Dây giác (Cayratia trifolia) là một loài dây leo thân gỗ bản địa ở châu Á và ở Úc. Đây là loài dây leo mọc hoang dại trong trong trảng cỏ và rừng thưa thuộc các nước Châu Á như: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma, Indonesia, Malaysia, Philippines và ở Australia (Queensland, Bắc và Tây Úc).
                                                                                                                      Ở Việt Nam dây giác mọc hoang dại trong các quần hệ thứ sinh và dọc các rào, bụi; từ các tỉnh Lào Cai, Nam Hà, Hải Phòng qua các tỉnh miền Trung cho tới An Giang, Kiên Giang.

                                                                                                                      3-Mô tả

                                                                                                                      Dây giác là loài dây leo thân hóa gổ, sống đa niên.
                                                                                                                      -Thân: Thân có tiết diện đa giác, thân non màu nâu đỏ, thân già màu xanh phớt đỏ, nhiều gân dọc, ít lông dài màu nâu đỏ, mấu màu nâu đỏ đậm và có nhiều lông hơn.
                                                                                                                      Dây leo nhờ tua cuốn mọc đối diện với lá. Tua cuốn thường phân 3 nhánh, đôi khi 4-5 nhánh, màu nâu đỏ, ít lông, có những gân dọc. 
                                                                                                                      - mọc cách, kép lông chim 1 lần lẻ, 3 lá chét, lá giữa kích thước to hơn 2 lá bên. Lá chét hình trái xoan rộng, đỉnh nhọn, đáy tròn, kích thước 4-6 cm x 3-5 cm; lá già mặt trên màu xanh lục, mặt dưới nhạt hơn, gân giữa màu nâu đỏ; lá non mặt trên màu xanh phớt nâu đỏ, mặt dưới màu nâu đỏ; bìa phiến có răng cưa tròn đỉnh nhọn.
                                                                                                                      Gân lá hình lông chim, 6-8 cặp gân phụ, gân lá ở 2 mặt đều có lông dài màu đỏ.
                                                                                                                      Cuống lá chính hình trụ dài 5-6 cm, mặt trên có 1 rãnh nông; cuống lá chét mặt trên có 1 gân lồi ở giữa và 2 rãnh ở 2 bên, mặt dưới lồi tròn, dài 0,7-1,6 cm. Cuống lá chính và cuống lá chét màu nâu đỏ hay màu xanh phớt đỏ, có nhiều gân dọc và nhiều lông dài màu đỏ.
                                                                                                                      Lá kèm rời, hình tam giác, màu nâu đỏ, cao 0,35 cm, rộng 2 cm, có nhiều lông dài màu đỏ, rụng sớm.
                                                                                                                      -Hoa:
                                                                                                                      Cụm hoa: Xim 2 ngã kép dạng ngù được mang trên một trục dài 8 - 10 cm, cuống của xim dài 3,5 - 5 cm. Cuống của xim và trục cụm hoa hình trụ, màu xanh, có ít lông như ở thân và có những gân dọc. Cụm hoa thường mọc ở ngọn cành giữa 2 lá trên cùng; đôi khi đối diện lá. 
                                                                                                                      Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 4. Cuống hoa ngắn, hình trụ, màu xanh, hơi phình ra phía đế hoa, có ít lông ngắn màu trắng. Lá bắc và lá bắc con hình tam giác, màu nâu, có lông màu trắng, cao 1 mm, tồn tại. Gốc cuống chung của xim ở giữa cũng có 1 vảy giống lá bắc. 
                                                                                                                      Đài hoa chỉ còn là 1 gờ màu trắng xanh, miệng gờ hơi dợn sóng, có ít lông ngắn. 
                                                                                                                      Cánh hoa 4, đều, rời, màu xanh, hình bầu dục nhọn ở đỉnh, cao 3 mm, dễ rụng, mặt ngoài cánh hoa có nhiều lông rất ngắn màu trắng, tiền khai van. 
                                                                                                                      Nhị 4, đều, rời, đính trên đế hoa thành 1 vòng trước mặt cánh hoa. Chỉ nhị màu trắng, nhẵn, gốc phình to và thon dần về phía trên, dài 1 mm. Bao phấn hình bầu dục rộng, màu trắng ở hoa non, vàng nhạt ở hoa già, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính giữa, cao khoảng 0,5 mm. 
                                                                                                                      Hạt phấn rời, hình bầu dục, màu vàng nhạt, có 3 rãnh dọc, kích thước 38 x 25 µm. 
                                                                                                                      Lá noãn 2, vị trí trước sau, bầu trên 2 ô, mỗi ô 2 noãn, đính noãn trung trụ. Bầu noãn chìm và dính vào đĩa mật. Vòi nhụy ngắn 0,6 mm, màu đỏ đậm, đính ở đỉnh bầu, phía dưới phình to, thon dần về phía trên và thắt lại ở đầu nhụy. Đầu nhụy dạng khối trụ rất ngắn, màu đậm hơn. Đĩa mật dày bao quanh đáy bầu noãn, cao khoảng 0,6 mm, chia 4 thùy không rõ, màu trắng ở hoa mới nở, màu vàng ở hoa già. 
                                                                                                                      -QuảQuả mọng, hình cầu dẹt, màu tím đen, quả non màu xanh và đỉnh có gai nhọn màu nâu đỏ (vết tích vòi và đầu nhụy), chứa 1-4 hạt. 
                                                                                                                      -HạtHạt có tiết diện tam giác, một mặt hình tim, 2 mặt còn lại phẳng, màu xanh nâu, nội nhũ hình chữ T.

                                                                                                                      Dây trái giác mọc hoang

                                                                                                                      4-Thành phần hóa học

                                                                                                                      Lá chứa flavonoids (như cyanidin, delpyridin). Axít hydrocyanic (HCN) cũng có trong thân, lá và rễ.

                                                                                                                      5-Công dụng của dây giác

                                                                                                                      a-Trái giác được dùng làm rau gia vị nấu canh chua
                                                                                                                      Ở vùng ĐBSCL có nhiều loài rau, quả có vị chua được dùng để nấu canh chua như lá me, lá quý mầu, cải dưa chua, khóm, me, trái bứa...nhưng trái giác sẳn có ở vùng hoang vu dùng để nấu canh chua nhưng trái giác xưa kia được dùng để nấu canh chua phổ biến ở các tỉnh ven biển Miền Tây Nam Bộ.
                                                                                                                      Khi còn non, trái nhỏ như hạt đậu xanh. Càng lớn, trái càng có màu xanh đậm đà và bóng bẩy. Trái chín lại có màu đen thẫm, bên trong tím lịm như mực mồng tơi. Trái giác non có vị chua chát, càng lớn vị thay đổi từ chua thanh đến chua ngọt. Bởi vậy, ai ưa vị canh chua thế nào thì canh trái giác lứa đó mà hái về nấu.
                                                                                                                      Theo nông dân miệt vườn sành điệu thích nấu canh chua với trái giác “già”, nghĩa là trái đã đến độ sắp chín nhưng màu vẫn còn xanh. Theo họ những trái như thế làm cho nồi canh chua thanh rất ngon. Trái giác được hái về từng chùm, lặt rời từng trái một, sau đó rửa sạch và cho vào nồi nấu canh. Để nồi canh chua ngon, trái giác phải được nấu cùng cá đồng, lươn, ếch cùng với rau muống đồng, ngò om thơm và một số gia vị khác.
                                                                                                                      1-Canh chua cá đồng nấu trái giác
                                                                                                                      Trước bắc nồi nước lên nấu cho thật sôi rồi thả trái giác vào nấu đến khi trái mềm rệu rã thì lược lấy trái cho ra tô. Sau đó cho một ít nước sôi vào tô, dầm cho trái giác nhuyễn từ từ, cho thêm một ít nước sôi nữa hòa vào phần đã dầm để lọc lấy nước trút lại vào nồi canh đang nấu. Lược nước chua xong là cho cá đồng đã làm sạch vào nồi, ngon nhất là cá rô đồng lớn (cá rô mề). Khi canh đã sôi, nêm nếm cho nồi canh vừa ăn với các gia vị: ớt, bột ngọt, nước mắm và ít đường. Đợi cá chín, cho tiếp rau vào. Nồi canh vừa ăn, cá và rau chín đều thì nhấc nồi khỏi bếp lửa. Rau ngò om được rửa sạch và cắt nhỏ sẽ cho vào nồi canh sau cùng, để giữ mùi thơm của rau . Vậy là có nồi canh chua ngon như ý.
                                                                                                                      Nếu ai thích ăn canh chua trái giác tím thì lúc hái trái sẽ chọn thêm một ít trái chín, nhưng hương vị chủ đạo vẫn phải chọn trái giác “già” mới ngon. Chỉ cần thêm một đến hai chùm trái chín mùi, nồi canh đã có màu tím rất đẹp.
                                                                                                                      Trái giác mát lành, có thể đi hái chứ không tốn tiền mua, vì thế người dân quê luôn ưng bụng mỗi khi nấu nồi canh chua cho bữa cơm gia đình.
                                                                                                                      Nguồn: Hà Linh- Báo Bạc Liêu.

                                                                                                                      Canh chua lươn nấu trái giác
                                                                                                                      2-Canh chua lươn nấu trái giác
                                                                                                                      Trong văn hóa ẩm thực, lươn được liệt vào món đặc sản có tiếng. Từ quán nhậu bình dân ngoài sân, đến nhà hàng máy lạnh cao cấp, tại nông thôn vùng sâu đến phố thị đông đúc...
                                                                                                                      Đâu đâu lươn cũng được coi là món ăn hấp dẫn nhiều giới, chế biến được các món hợp khẩu vị: lươn um rau ngổ, lươn xào lăn, xào sả ớt, kho mắm, nướng chao, nấu cháo môn ngọt với nước cốt dừa, lươn dồi. 
                                                                                                                      Nhưng thực khách thường khoái món “trái giác nấu canh chua lươn” bởi trái giác khi đã “chuyên trị” với lươn thường cho ta một vị chua thanh ở mỗi muỗng canh khi ăn. Tại đồng bằng sông Cửu Long, nhất là miệt Cà Mau - U Minh Hạ, lươn có nhiều, vì chúng thích nghi môi trường ao hồ nước đọng tù hãm.
                                                                                                                      Muốn chế biến lươn, người ta chỉ cần đem lươn đổ vô đống tro vuốt cho sạch nhớt. Sau đó đem rửa lại nước giấm cho thật sạch, rồi mổ ruột, để cho ráo nước.
                                                                                                                      Chuẩn bị một nồi canh chua lươn nấu trái giác, cần có trái giác, cọng bông súng cắt thành từng đoạn khoảng hơn 4cm, một vài tép sả đập dập cắt từng đoạn dài, tỏi để nấu. Lươn cắt thành khúc cỡ 10 cm hoặc để nguyên con tùy thích và tùy con lươn dài hay ngắn. Đầu tiên, bắc chảo mỡ phi tỏi cho nóng, thả lươn vô chảo xào sơ cho gia vị thấm đều, rồi gắp lươn ra đĩa.
                                                                                                                      Chọn trái giác xanh, nhưng nhớ rằng phải thêm vào một vài trái giác chín để khi nấu cho ra nước màu tim tím trông bắt mắt hơn... Trái giác cùng với những tép sả đập dập cho vào nồi đun sôi với lượng nước vừa phải, khi đã thấy trái giác vừa độ phân rã thì lấy dụng cụ lược hết những xác bã trái giác ra bỏ đi và cho những khoanh lươn đã xào sơ vào nồi nấu chung với những cọng bông súng, đợi lươn chín thì nêm nếm cho vừa ăn. Nhớ khi múc ra tô, đừng quên điểm vào tô canh chua lươn nấu trái giác vài lát ớt, ngò gai, ngò om… cho đầy đủ hương vị nhà quê.
                                                                                                                      Cả nhà ngồi quanh mâm cơm với tô canh trái giác nấu canh chua lươn bốc khói nghi ngút, một cảm giác đầm ấm và hạnh phúc vô cùng…
                                                                                                                      Nguồn: NĂM VUÔNG - Báo ảnh Đất Mũi

                                                                                                                      Cá rô kho trái giác
                                                                                                                      b-Trái giác dùng làm gia vị trong các món kho
                                                                                                                      1-Cá rô kho trái giác
                                                                                                                      Quả dây giác là một loại quả nhỏ, lúc sống màu xanh, khi chín mộng nước và chuyển sang màu tím sậm, vị chua ngọt và ăn được. Loài khỉ rừng rất ưa loại quả này.
                                                                                                                      Ngày xưa người dân vùng rừng U Minh sống xa chợ, các món rau và gia vị là những loài cây haong dại thu hái trong tự nhiên, ở đây quả dây giác chín được dùng để nêm các món kho thay cho me và đường. Món kho thịnh hành nhất ở các tỉnh vùng biển Nam Bộ trước đây là là món cá rô đồng kho với quả giác chín, món ăn dân giả nhưng có hương vị đậm đà khó quên. Ngày nay tuy có đầy đủ gia vị nhưng cá rô đồng kho trái giác vẩn là món ăn hoài niệm miền quê dân dã thời nào, và là mặt hàng thu hút khách du lịch đếm thăm vùng ĐBSCL.
                                                                                                                      Cá rô là một loài cá đồng, thịt ngon nổi tiếng. Loài cá này có nhiều cách chế biến, từ món kho tộ cho đến nướng, chiên, nấu canh chua, kho mắm… món nào cũng tuyệt, nhưng có lẽ hấp dẫn nhất là món kho trái giác.
                                                                                                                      Chọn khoảng 1 kg cá rô mề còn tươi (loại cá từ 150-200 gr/con), làm sạch, ướp thêm đường, nước màu, tiêu, hành lá, ớt, nước mắm cho thấm độ 10 phút. Sau đó cho vào ơ, rải đều lên cá một lớp trái giác (vừa sống vừa chín) độ 150 gr. Khi ơ cá vừa sôi lên, cho thêm nước vào rồi đun lửa riu riu cho đến khi trái giác chín mềm.
                                                                                                                      Khi ăn, chúng ta dùng đũa giằm trái giác cho nhừ ra nhằm làm tăng thêm hương vị đậm đà. Thịt cá rô vừa ngọt, vừa béo, ngon hơn nhiều so với các loại cá đồng khác lại được nấu chung với trái giác, một loại hương đồng cỏ nội, tạo thành một mùi vị đặc trưng vừa chua cay, vừa thơm ngon và bổ dưỡng, giúp cho người ăn có một cảm giác lạ miệng vô cùng thích thú.
                                                                                                                      Muốn ngon và hấp dẫn hơn, chúng ta có thể dùng các loại Rau rừng như bồn bồn tươi, bông súng, bông điên điển, dưa leo, chuối chát… chấm với nước cá. Đúng là một món ngon tuyệt, ít có món kho nào sánh kịp.
                                                                                                                      Nguồn: naungon.com
                                                                                                                      Cá rô kho trái giác
                                                                                                                      2-Trái giác dùng trong các món kho khác
                                                                                                                      Từ kinh nghiệm dân gian, ngoài món cá rô kho trái giác, nhiều loài cá đồng, cá biển và thịt kho khác cũng có thể kho với trái giác để tạo hương vị lạ trong các món kho ở Miền Tây. Đây là một phát hiện mới trong ẩm thực dân gian Nam Bộ.

                                                                                                                      Cá dứa kho trái giác
                                                                                                                      b-Quả giác được lên men lấy rượu
                                                                                                                      +Rượu trái giác thủ công
                                                                                                                      Trái giác từ xưa đã được dùng làm một loại gia vị đặc biệt trong các món ăn của người dân vùng U Minh. Trái giác được dùng không chỉ vì hương vị đặc biệt của nó mà còn là vì những tác dụng dược học của nó đối với cơ thể con người.
                                                                                                                      Trước đây trái giác chín xem như phần bỏ đi, mặc cho chim, chuột, sóc và khỉ rừng xử lý. Nhưng hiện nay thông qua tài liệu ở nước ngoài được biết trái giác chín có thành phần hóa học và mùi vị tương tự như trái nho nên nó cũng được ủ rượu như rượu nho.
                                                                                                                      Ông cha ta có câu: khách tới nhà không trà cũng rượu. Do đó, đến với vùng đất U Minh, ngoài những giây phút thoải mái khi được đắm mình vào thiên nhiên ra, bạn còn có thể thưởng thức được món rượu Trái giác, một đặc sản của vùng đất U Minh Thượng, được sơ sở sản xuất rượu thủ công Nguyễn Mai sản xuất, đây cũng chính là món quà mà cơ sở muốn dành tặng cho các bạn phương xa và cũng là món quà mà bạn có thể mua để tặng cho những người thân yêu của mình, minh chứng cho một lần đến U Minh, nơi thành đồng.
                                                                                                                      Rượu trái giác được sản xuất bằng công nghệ lên men tự nhiên do đó sẽ lưu giữ những gì tinh túy nhất của trái giác rừng, một loại trái cây đặc trưng của vùng đất U Minh Thượng, Kiên Giang.

                                                                                                                      Trái giác chín để ủ rượu
                                                                                                                      +Rượu trái giác công nghiệp
                                                                                                                      Rượu trái giác là một loại rượu được sản xuất từ trái giác (Cayratia trifolia). Nguyên liệu chính để sản xuất rượu trái giác là Trái giác, đường và rượu.
                                                                                                                      Để sản xuất loại rượu này, người ta dùng trái giác ủ chung với đường để lên men. Sau một thời gian lên men, từ hỗn hợp này sẽ cho ra đời một loại mật có màu đỏ tím và mùi vị rất ngon. Tùy vào mục đích sử dụng mà người ta có thể dùng mật này để pha chế thành các sản phẩm khác nhau.
                                                                                                                      Phát xuất từ ý tưởng này, Công ty Cổ phần Sim Phát tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã nghiên cứu để sản xuất mặt hàng rượu trái giác. Trong 3-4 năm trở lại đây Công ty này đã đặt trạm thu mua trái giác rừng chín tại Ấ 4, Xã Khánh Thuận, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau để sơ chế giúp cho hàng ngàn nông dân có thu nhập thêm do hái quả giác rừng chín.
                                                                                                                      Ông Trịnh Công Phát, Giám đốc Công ty CP Sơn Phát (H.Phú Quốc, Kiên Giang) - người đứng ra thu mua trái giác, cho biết: “Chúng tôi chưa mở rộng diện tích trồng, hiện còn trong giai đoạn khảo sát công dụng của trái giác, hiệu quả kinh tế của nó”.
                                                                                                                      Nếu sản phẩm Rượu vang trái giác sản xuất công nghiệp thành công, dây giác sẽ trở thành dây nho hoang dại có sức sống mới ở Miền Tây Nam Bộ.


                                                                                                                      Rượu trái giác của cơ sở Nguyễn Mai

                                                                                                                      +Những mặt lạc quan và lo ngại khi Rượu vang trái giác xuất hiện
                                                                                                                      -Tín hiệu lạc quan:
                                                                                                                      Hiện nay, bà con sống trên đất rừng U Minh có thêm nguồn thu nhập không nhỏ từ trái giác hoang dã. Cứ vào tháng 7 kéo dài đến tháng 11 âm lịch là mùa trái giác chín. Tại kinh 5 Đất Sét, thuộc ấp 4, xã Khánh Thuận, những năm gần đây, người dân bắt đầu đổ xô đi tìm trái giác để bán cho các cơ sở thu mua.
                                                                                                                      Trái giác được bán với giá ổn định 8.000 đồng/kg, là một nguồn thu không nhỏ đối với nhiều gia đình. Chị Tôn Thị Mau, ấp 4, xã Khánh Thuận, cho biết: “Mỗi khi chiều xuống, xóm này xuồng ghe hái trái giác về tấp nập. 
                                                                                                                      Nhờ trái giác có đầu ra mà bà con cũng đỡ khổ. Trước đây không có việc làm, phải đi làm thuê hoặc hầm than, cực khổ lắm, bây giờ khi mùa trái giác đến, cuộc sống đỡ hơn”.
                                                                                                                      Bà con ở đây cho biết, 1 lao động 1 ngày có thể hái được vài chục ký trái giác, thu nhập bình quân 200.000 đồng. Lúc cao điểm của mùa trái giác chín, có khi thu nhập lên đến 500.000 đồng/người/ngày. 
                                                                                                                      Cũng chính nhờ trái giác mà những năm gần đây đã tạo được công ăn việc làm cho nhiều gia đình. Không chỉ đối với những lao động chính mà người lớn tuổi, học sinh vào những ngày nghỉ cũng có thể đi hái trái giác giúp gia đình kiếm thêm thu nhập.
                                                                                                                      Bà Đoàn thị Dân, ở ấp 4, xã Khánh Thuận, chia sẻ, gia đình bà thuộc hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, năm nay bà đã bước vào tuổi 65 nhưng phải làm lụng bằng mọi cách để  kiếm tiền nuôi người chồng bị bệnh suốt 15 năm qua. Nhờ hái trái giác bán, giúp gia đình bà có nguồn thu nhập, không còn chật vật như trước.
                                                                                                                      Xã Khánh Thuận có diện tích rừng rất lớn nên dây giác mọc rất nhiều, do đó sản lượng trái giác tự nhiên không hề nhỏ. Trong 3 năm trở lại đây, tại ấp 4 đã hình thành một điểm thu mua sản phẩm trái giác chín. Sau khi qua công đoạn sơ chế ban đầu, cơ sở này cung cấp nguồn nguyên liệu cho Công ty Cổ phần Sim Phát tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang để sản xuất mặt hàng rượu trái giác. 
                                                                                                                      Trung bình mỗi mùa trái giác qua đi, cơ sở thu mua khoảng 70-80 tấn trái giác. Nhưng theo ông Danh Riêng, chủ cơ sở, nguồn nguyên liệu thu mua được vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu mà nhà máy sản xuất đặt hàng.
                                                                                                                      Dây giác là chủng loại thực vật rất phong phú trên đất rừng U Minh. Vào mùa mưa, hầu như trên tuyến bờ các lâm phần rừng tràm đều có dây giác đeo bám trên các thảm thực vật, trái chín có màu tím sậm trông rất đẹp.
                                                                                                                      Theo ông Nguyễn Minh Lắm, Chủ tịch UBND xã Khánh Thuận, với lợi thế về đầu ra của mặt hàng trái giác sẽ là điều kiện góp phần quan trọng cho việc xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm. Chính vì vậy, hiện nay chính quyền xã đang khuyến khích người dân khai thác triệt để mặt hàng này, tạo được vùng nguyên liệu trái giác cung ứng cho thị trường trong những năm tiếp theo.
                                                                                                                      Nguồn: Xuân Quang-Báo Cà Mau
                                                                                                                      -Những băng khoăn, lo ngại
                                                                                                                      Theo kỹ sư Trần Văn Thước, Hội Liên hiệp khoa học kỹ thuật tỉnh Cà Mau, đây là loại cây dây leo, phát triển và tồn lưu đa niên, thân giác khi bị phân thành các đoạn đều có thể phát triển dây leo mới, thậm chí dây giác vươn dài 1 mét/tuần. Dây giác cũng là loại cây khó diệt và là môi trường thuận lợi để loài vắt sinh sôi. Nếu muốn phát triển việc trồng dây giác thì phải cân nhắc thị trường tiêu thụ có lâu dài không, bền vững không. Quan trọng hơn hết là phải có biện pháp tiêu diệt hữu hiệu nếu thị trường không còn nhu cầu bởi như đã nói, đây là loại rất khó diệt và nó triệt tiêu những cây trồng xung quanh, kể cả cây cổ thụ.
                                                                                                                      Theo GS-TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng ĐH Tân Tạo (Long An), nhận định: “Trái giác làm rượu vang rất ngon nên đây là dự án có triển vọng lớn. Trước mắt, trái giác ngoài tự nhiên rất nhiều, chưa phải trồng nên không cần cân nhắc nhiều”.
                                                                                                                      Nguồn: Gia Bách- Báo Thanh niên
                                                                                                                      Theo bản thân tôi, dây giác là loài thực vật bản địa, chúng đã từng mọc hoang hàng ngàn năm, khác với những loài thực vật xâm hại. Dù có trồng hay không trồng chúng cũng phát triển bình thường trong tự nhiên.
                                                                                                                      Nếu quả dây giác được sản xuất rượu vang thành công thì đây là lợi thế của địa phương, vì muốn đưa một cây trồng mới có hiệu quả kinh tế vào đồng bằng nhiểm mặn và chua phèn không phải đơn giản.
                                                                                                                      Do đó dây giác là nguồn gen quý của Miền Tây Nam Bộ, nên mạnh dạn phát huy, tất nhiên phải có những quy định để bảo vệ môi trường sinh thái và có những biện pháp kiểm soát sinh quần thực vật hiệu quả.
                                                                                                                      c-Các bộ phận dây trái giác được dùng làm thuốc
                                                                                                                      Theo Đông y Rễ day giác có vị cay, tính mát, có độc; có tác dụng thanh nhiệt  giải độc, làm săn da. Bộ phận dùng: Rễ và thân lá (Radix et Caulis Cayratiae trifoliae).
                                                                                                                      Rễ được dùng trị nhọt phổi và đinh nhọt.
                                                                                                                      Ở Việt Nam thân, lá và quả dây trái giác được nấu để lấy nước tắm trị rôm, sảy cho trẻ em.
                                                                                                                      Ở Ấn Độ, người ta dùng rễ giã ra với tiêu sọ đắp trị mụn nhọt.
                                                                                                                      Ở Campuchia, rễ tươi dùng giã ra, thêm nước lọc uống trị bạch đới và dùng lá sắc uống làm thuốc hạ nhiệt, nước chảy từ thân khi ta chặt ra có thể dùng uống được.
                                                                                                                      Ở Trung Quốc, rễ được dùng trị đòn ngã tổn thương, nhọt phổi, ghẻ lở, thân lá được dùng trị gẫy xương.

                                                                                                                      Thu hái trái giác hoang dại chín ở Cà mau
                                                                                                                    19. Dây trái gùi
                                                                                                                      Dây trái gùi
                                                                                                                      -Tên gọi khác: Dây trái guồi
                                                                                                                      -Tên tiếng Anh: Edible willugbeia
                                                                                                                      -Tên khoa học: Willughbeia cochinchinensis (Pierre) K.
                                                                                                                      -Tên đồng nghĩa: Willughbeia edulis Roxb.

                                                                                                                      1-Phân loại khoa học (Scientific classification)


                                                                                                                      Giới (Kingdom):Thực vật (Plantae)
                                                                                                                      Ngành (Phylum):Thực vật có hoa (Angiosperms)
                                                                                                                      Nhánh (Division):Hai lá mầm thực sự (Eudicots)
                                                                                                                      Lớp (Class):Asterids/Magnoliopsida
                                                                                                                      Bộ (Order)Long đởm (Gentianales)
                                                                                                                      Họ (Family)Trúc đào (Apocynaceae)
                                                                                                                      Chi (Genus)Dây gùi (Willughbeia)
                                                                                                                      Loài (Species)Willughbeia cochinchinensis 

                                                                                                                      2-Nguồn gốc và phân bố

                                                                                                                      Chi Dây gùi (Willughbeia) có nguồn gốc ở Đông Dương với khoảng 54 loài bao gồm những thực vật có dây leo hóa gổ sống hoang dại trong rừng. Trong đó có khoảng 20 loài được định danh và vài loài có quả mộng ăn dược với vị chua ngọt.
                                                                                                                      Dây gùi (Willughbeia cochinchinensis) là loài dây leo thân hóa gổ sống trong rừng, là loài cây có quả ăn được quan trọng trọng nhất trong Chi Dây gùi. Đây là loài cây đặc hữu của Campuchia và Việt Nam (ở vùng Đông Nam Bộ).
                                                                                                                      Ở Việt Nam trước đây dây gùi sống tự nhiên rất phổ biến trong các khu rừng nguyên sinh ở Miền Đông Nam Bộ như ở Bến Cát, Lộc Ninh, Chiến khu D…nhưng hiện nay loài dây leo có quả quý này gần như sắp bị tiệt chủng do rừng nguyên sinh đã bị khai phá.
                                                                                                                      Ở Campuchia trái gùi có tên là Kuy, là loại quả còn phổ biến trong các khu rừng nguyên sinh và đang được bảo tồn và khai thác để phục vụ khách du lịch.
                                                                                                                      Ngoài ra dây gùi còn gặp ở Thái Lan, Myama và ở Ấn Độ.

                                                                                                                      3-Mô tả

                                                                                                                      -Thân: Cây gỗ leo. Thân có mấu lồi, bấm ra nhựa mủ trắng.
                                                                                                                      : Lá mọc đối, chóp nhọn; gân lá nổi rõ ở mặt trên.
                                                                                                                      Hoa: Hoa tập hợp ở nách lá, màu trắng.
                                                                                                                      Quả: Quả to bằng nắm tay, khi chín màu vàng, vị chua ngọt, ăn được.
                                                                                                                      Cây ra hoa  tháng 1-3, mùa quả tháng 3-5.


                                                                                                                      Hái trái gùi


                                                                                                                      Trái gùi chín

                                                                                                                       Trái gùi tách vỏ

                                                                                                                      4-Công dụng

                                                                                                                      a-Trái gùi là loại quả đặc sản, dùng để ăn chơi
                                                                                                                      Trái gùi chưa chín có nhựa và vị chát, đắng, không ăn được. Trái gùi chín có kích thước gần bằng quả trứng gà, có vỏ màu vàng, mỏng, khi bẻ ra phần ruột bên trong có những múi như múi mít. Trái gùi chín có vị chua ngọt và mùi thơm đặc biệt, được dùng làm quà cho những người ở thành phố và miền đồng bằng về thăm miền đông Nam Bộ.
                                                                                                                      Trong những năm trước giải phóng Miền Nam, có bài ca vọng cổ nổi tiếng với tựa đề “Chị Nhành” hay “Trái gùi Bến Cát” kể về một người phụ nữ ở miền xuôi đi buôn bán đường xa trên chuyến xe lửa Sài Gòn-Lộc Ninh, khi trở về chị mua những xâu trái gùi làm quà cho con chị. Rủi thay chị bị xe lửa cán chết, trên tay vẩn còn nắm những sâu trái gùi và những đứa con nhỏ của chị chờ tiếng còi xe lửa để ra ga đón mẹ để nhận lấy trái gùi…bài hát nêu lên câu chuyện tình mẫu tử rất xúc động. (Mời bạn đọc xem Video ở cuối bài).

                                                                                                                      Trái gùi chín

                                                                                                                      Ruột trái gùi
                                                                                                                      b-Các bộ phận dây gùi được dùng làm thuốc
                                                                                                                      Nơi sống và thu hái: Loài cây đặc hữu của miền Nam Việt Nam và Campuchia, mọc hoang ở rừng rậm hay rừng thưa. Thu hái dây, rễ và mủ cây quanh năm.
                                                                                                                      Bộ phận dùng: Dây hoặc rễ, mủ cây - Caulis seu Radix et Latex Willughbeiae Cochinchinensis.
                                                                                                                      Tính vị, tác dụng: Lương y Nguyễn An Cư cho biết: Guồi có vị hơi đắng, tính mát, không độc, có tác dụng lợi thuỷ, thông nhũ, sinh tân, chỉ khát, giáng hoả, thanh nhiệt, tiêu ban, chỉ ẩu, trừ thũng, tán ung.
                                                                                                                      Mủ cây tạo thành một chất gôm màu đỏ rất dính, rất cứng, khi khô không trong, dễ vỡ.
                                                                                                                      Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Campuchia, thân cây được sử dụng làm các chế phẩm thuốc trị lỵ và bệnh về gan và bệnh ghẻ cóc. Có khi người ta ngâm rượu làm thuốc cho phụ nữ mới sinh để uống cho khoẻ.
                                                                                                                      Lương y Nguyễn An Cư còn cho biết là đàn bà huyết bại tê đau, bạch trọc, bạch đới, băng huyết, rong huyết dùng nó rất hay. Mủ cây thường dùng để làm lành mụn nhọt. Người ta cũng dùng nó bôi chữa ghẻ và sâu răng.
                                                                                                                    20. Dưa gang tây
                                                                                                                    21. Hoa thiên lý
                                                                                                                    22. Khổ qua - Mướp đắng
                                                                                                                    23. Khổ qua rừng
                                                                                                                    24. Lá lốp
                                                                                                                      Cây lá lốp
                                                                                                                      -Tên gọi khác: Lá lốt (Miền Bắc).
                                                                                                                      -Tên tiếng Anh: Lolot, Lolot pepper, Poivrelolot.
                                                                                                                      -Tên khoa học: Piper lolot C.DC.
                                                                                                                      -Tên đồng nghĩa:Piper lotlot L.

                                                                                                                      Phân loại khoa học


                                                                                                                      Bộ (ordo):Hồ tiêu (Piperales)
                                                                                                                      Họ (familia):Hồ tiêu (Piperaceae)
                                                                                                                      Chi (genus):Hồ tiêu (Piper)
                                                                                                                      Loài (species):Piper lolot

                                                                                                                      Lá lốp là cây thân thảo dây leo đa niên, có tên khoa học là Piper lolot thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae), họ này gồm các loài như trầu không, hồ tiêu v.v… Ở Nam Bộ gọi là "Lá lốp", ở Bắc Bộ gọi là “Lá lốt”, một số địa phương ở Miến Bắc còn gọi là "nốt".

                                                                                                                      Phân bố

                                                                                                                      Cây lá lốp có nguồn gốc từ Đông Dương. Được phân bố khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Châu Á. Hiện nay nó được giới thiệu đến Châu Mỹ và Châu Đại Dương.
                                                                                                                      Việc thực hành của gói thịt bầm trong lá nho để nướng có nguồn gốc ở Trung Đông, đã được đưa đến Ấn Độ bởi người Ba Tư, sau đó đã được giới thiệu bởi những người Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Á . Tuy nhiên, nho không phát triển tốt ở vùng khí hậu nhiệt đới, do đó, người Việt Nam bắt đầu sử dụng lá lốp thay vì lá nho. Chính món thịt nướng lá lốp này từ Việt Nam phổ biến sang nhiều nước Đông Nam Á khác.
                                                                                                                      Người di cư Việt Nam đã giới thiệu loài cây này đến Hoa Kỳ và Australia nhằm mục đích làm rau và dược phẩm.

                                                                                                                      Mô tả

                                                                                                                      Cấy lá lốp là thực vật dây leo thân thảo. Lúc còn nhỏ cây mọc đứng, cao 30-50 cm. Khi cây lớn có thân dài, bò trên giá đở là cành cây chết hay thảm thực vật vật sống.
                                                                                                                      -Thân: Thân màu xanh lục sậm, phồng to ở các mấu, tiết diện tròn, mặt ngoài nhiều rãnh dọc, có lông ngắn và mịn, có chiều dài 3-4 m, có mùi thơm. Vi phẫu cắt ngang hình tròn với nhiều chỗ lồi nhỏ, vùng vỏ chiếm 1/5 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ 4/5.
                                                                                                                      -Rể: Vi phẫu cắt ngang hình tròn, vùng vỏ chiếm 1/3 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 2/3.
                                                                                                                      -Lá:  đơn, mọc cách. Phiến lá hình trứng rộng, đầu thót nhọn, gốc hình tim và không đối xứng, dài 10-12 cm, rộng 8-11 cm, rải rác có điểm trong, mặt trên nhẵn, màu xanh lục sậm và láng bóng, mặt dưới màu xanh lục nhạt và có lông mịn trên gân; mép lá nguyên; gân lá hình chân vịt với 5 gân gốc, gân ở giữa phân 2 gân bên so le hay đối nhau cách gốc lá một đoạn 5 mm, các gân đều cong hướng về ngọn lá; cuống lá dài 2-5 cm, hình trụ, lõm ở mặt trên, gốc cuống nở rộng. Lá kèm rụng sớm, hình tam giác, màu xanh lục, có 2 dạng: một phiến mỏng bao chồi hoặc là hai phiến mỏng, dài 1-1,5 cm, dính hai bên đáy cuống lá, khi rụng để lại hai sẹo dài màu nâu, dạng thứ hai thường gặp hơn.
                                                                                                                      -Hoa: Cụm hoa  gié cái mọc đối diện với lá, hình trụ, màu trắng, dài 10-12 mm, đường kính 3 mm, mang hoa khắp cùng; trục cụm hoa nạc, đường kính 1 mm; cuống cụm hoa màu xanh lục, hình trụ, dài 10-12 mm, đường kính 1-2 mm, rải rác có lông mịn màu trắng. Hoa rất nhỏ, trần, đơn tính cái, xếp khít nhau và áp sát vào trục. Lá bắc là phiến tròn nhỏ, áp sát và trục, lúc đầu màu trắng sau chuyển hơi nâu. Lá noãn 3-4, dính nhau tạo thành bầu trên 1 ô đựng 1 noãn, đính noãn đáy; bầu hình trứng, màu trắng, mặt ngoài nhẵn, cao 1,5 mm, đường kính 1-2 mm; vòi nhụy gần như không có; đầu nhụy 3, có khi 4, hình trứng rộng, màu trắng.
                                                                                                                      -Quả: Quả mọng chứa một hạt. Cây ra hoa, có quả vào mùa thu, từ tháng 8 đến 10.

                                                                                                                      Thành phần hóa học

                                                                                                                      Lá, thân và rễ chứa ankaloid và tinh dầu. Tinh dầu có 35 thành phần trong đó 25 thành phần đã được nhận dạng, thành phần chủ yếu là β-caryophylen. Rễ chứa tinh dầu, trong đó thành phần chính là bornyl acetate.

                                                                                                                      Công dụng

                                                                                                                      a-Lá lốp được dùng làm rau

                                                                                                                      Lâu nay lá lốt không chỉ được xem như một vị thuốc dân gian mà còn là loài rau ăn lá, loại gia vị thơm ngon của người Miền Nam. Lá lốt khi kết hợp với các loại nguyên liệu như thịt, cá, chả cá hay hải sản có thể cho ra các món ăn hấp dẫn bằng nhiều hình thức chiên, xào, nướng hoặc nấu canh, trong đó đặc biệt phải kể đến món canh thịt bò lá lốt.
                                                                                                                      Lá lốt còn là một nguyên liệu để nấu các món ăn như chả băm viên lá lốt, ốc nấu chuối đậu, canh lá lốt, bò cuốn lá lốt...
                                                                                                                      Ở Việt Nam lá lốp được dùng làm rau gồm những dạng sau đây:
                                                                                                                      -Lá lốp dùng để ăn sống: Đọt và lá non được dùng để ăn sống kèm với thịt nướng, thịt xào, cá, thủy sản…Do có vị cay, nồng nhẹ và mùi vị như lá tiêu nên lá lốp được dùng như một loại rau gia vị.
                                                                                                                      -Lá lốp dùng để chiên, xào: Lá lốp non, để nguyên hoặc xắt nhuyễn dược dùng để xào với các món thịt bò, gà, ếch nhái…
                                                                                                                      -Lá lốp dùng làm vỏ quấn để nướng: Các món nướng nổi tiếng như bò nướng lá lốp, thịt rừng nước lá lốp là món ăn khoái khẩu và sang trọng ở Việt Nam và một số nước vùng Đông Nam Á.
                                                                                                                      -Lá lốp dùng để nấu canh, nấu lẫu: Lá lốp non để nguyên hay sắt nhuyễn dùng để nấu canh với thịt bầm, hải sản là món ăn bổ dưỡng và ngon miệng.

                                                                                                                      Thịt bò nướng lá lốp

                                                                                                                      b-Lá lốp dùng làm thuốc

                                                                                                                      Ngoài giá trị làm thức ăn và gia vị, từ lâu đời lá lốt đã được nhân dân ta dùng làm thuốc chữa thấp khớp và một số bệnh khác. Bộ phận được dùng làm thuốc là cả cây, thu hái lúc có hoa càng tốt.
                                                                                                                      Theo Đông y, lá lốp có vị nồng, hơi cay, có tính ấm, chống hàn (như bị lạnh bụng), giảm đau, chống phong hàn ở mức thấp, tay chân lạnh, tê tê, nôn mửa, đầy hơi, khó tiêu (có lẽ vì thế mà được dùng với thịt bò nướng vốn khó tiêu), hạ khí trừ hôi tanh, trị đau đầu vì cảm lạnh...
                                                                                                                      Theo nghiên cứu của Trường đại học dược Hà Nội, thành phần hoá học của lá lốp chủ yếu là tinh dầu (tỷ lệ 0,57%), piperin, piperidin. Kết quả thực nghiệm trên súc vật cho thấy nước ép lá lốp, cao lá lốp tươi và cao lá lốp khô đều có tác dụng kháng sinh, chống viêm rõ rệt trên súc vật gây viêm thực nghiệm.
                                                                                                                      Theo nghiên cứu về thảo mộc kháng sinh của Viện y học dân tộc, lá lốp (giã dập) có tác dụng mạnh đối với nhiều loại vi khuẩn gây bệnh như Staphylococcus, Streptococcus, Salmonella typhi, Shigella flexneri, sonnei, Shiga, B. subtilis, Es. coli, C. diphteriae, D. pneumoniae, H. pertusis… Điều này phù hợp với thực tế sử dụng lá lốt chữa các bệnh thấo khớp, đau răng và nhiều bệnh viêm nhiễm khác của nhân dân.
                                                                                                                      Trong nhân dân, lá lốp được dùng chữa nhiều bệnh, chủ yếu là chữa thấp khớp, chân tay lạnh, tê bại, đau lưng, mỏi gối, đau răng, rối loạn tiêu hoá, nôn mửa, đau bụng, đầy bụng, tiêu chảy do phong hàn. Liều dùng mỗi ngày từ 8 -12g dưới dạng thuốc sắc. Có thể dùng tươi hay phơi khô.
                                                                                                                      Theo kết quả nghiên cứu hiện đại, lá lốt có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm và giảm đau khá tốt.

                                                                                                                      Một số bài thuốc từ cây lá lốp

                                                                                                                      1. Chữa thấp khớp, đau nhức xương:
                                                                                                                      -Bài 1: Lá lốp 20g, thiên niên kiện 12g, gai tầm xoọng 16g. Sắc với 400ml nước, uống ngày một thang. (theo BS Kim Minh).
                                                                                                                      -Bài 2: Lá lốp (cả rễ và thân cây) 20g, dây đau xương 10g, rễ thầu dầu tía 10g.
                                                                                                                      Tất cả cắt ngắn, phơi khô, sắc với 600ml nước, còn lấy 200ml, uống làm hai lần trong ngày. Dùng 7 - 8 ngày. (theo BS Kim Minh).
                                                                                                                      -Bài 3: Lá lốp 20g, cỏ xước 20g, cành dâu 20g, cà gai leo 20g, ngải cứu 10g. Tất cả sao qua, sắc uống mỗi ngày một thang, trong 3-5 ngày liền. (theo BS Kim Minh).
                                                                                                                      2. Chữa đau răng:
                                                                                                                      Lấy rễ lá lốp, rửa thật sạch, giã nát với mấy hạt muối, ép lấy nước, dùng bông sạch tẩm vào răng đau, ngậm 2-3 phút rồi xúc miệng bằng nước muối. Ngày tẩm thuốc 3-4 lần, trong 1-2 ngày răng đau sẽ khỏi hoặc giảm đau rõ rệt.(theo BS Kim Minh).
                                                                                                                      3-Chữa đau nhức xương khớp khi trời lạnh:
                                                                                                                      5-10g lá lốp phơi khô (15-30g lá tươi), sắc 2 bát nước còn ½ bát, uống trong ngày. Uống khi thuốc còn ấm, nên uống sau bữa ăn tối. Mỗi liệu trình điều trị 10 ngày. Hoặc lá lốt và rễ các cây bưởi bung, vòi voi, cỏ xước, mỗi vị 30g, tất cả đều dùng tươi thái mỏng, sao vàng, sắc với 600ml nước, còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong 7 ngày.(Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      4-Trị chứng ra nhiều mồ hôi ở tay, chân:
                                                                                                                      Lá lốt tươi 30g, rửa sạch, để ráo cho vào 1 lít nước đun sôi khoảng 3 phút, khi sôi cho thêm ít muối, để ấm dùng ngâm hai bàn tay, hai bàn chân thường xuyên trước khi đi ngủ tối. Thực hiện liên tục trong 5-7 ngày. Hoặc lá lốt 30g, thái nhỏ, sao vàng hạ thổ. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Chia 2 lần, uống trong ngày. Uống trong 7 ngày liền. Sau khi ngừng uống thuốc 4 đến 5 ngày lại tiếp tục uống một tuần nữa. (Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      5-Chữa bệnh tổ đỉa ở bàn tay:
                                                                                                                      30g lá lốt tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy 1 bát nước đặc, uống trong ngày. Còn bã cho vào nồi đun với 3 bát nước, đun sôi khoảng 5 phút rồi vớt bã để riêng. Nước dùng để rửa nơi có tổ đỉa, sau đó lau khô lấy bã đắp lên, băng lại. Ngày làm 1-2 lần, liên tục trong 5-7 ngày. (Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      6-Chữa mụn nhọt vỡ mủ lâu ngày không liền miệng:
                                                                                                                      Lá lốt, lá chanh, lá ráy, tía tô, mỗi vị 15g. Cách làm: Trước tiên lấy lớp vỏ trong của cây chanh (bỏ vỏ ngoài) phơi khô, giã nhỏ, rây bột mịn rắc vào vết thương, sau đó các dược liệu trên rửa sạch, giã nhỏ đắp vào nơi có mụn nhọt rồi băng lại. Ngày đắp 1 lần. Đắp trong 3 ngày. (Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      7-Chữa phù thũng do thận:
                                                                                                                      Lá lốt 20g, cà gai leo, rễ mỏ quạ, rễ tầm gai, lá đa lông, mã đề mỗi vị 10g. Sắc với 500ml nước còn 150ml, uống trong ngày. Uống  sau bữa ăn trưa khi thuốc còn ấm. Dùng trong 3-5 ngày. (Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      8- Chữa đau bụng do lạnh:
                                                                                                                      Lá lốp tươi 20g, rửa sạch, đun với 300ml nước còn 100ml. Uống trong ngày khi thuốc còn ấm, nên uống trước bữa ăn tối. Dùng liên tục trong 2 ngày. (Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      9-Chữa đầu gối sưng đau:
                                                                                                                      Lá lốp, ngải cứu mỗi vị 20g (tất cả dùng tươi), rửa sạch, giã nát, thêm giấm chưng nóng, đắp, chườm nơi đầu gối sưng đau. (Theo Sức khỏe & Đời sống).
                                                                                                                      10-Chữa đau nhức xương khớp:
                                                                                                                      Bài 1: Dùng 5-10g lá lốt phơi khô, hay 15-30g lá tươi, sắc với nước, chia 2-3 lần uống trong ngày.
                                                                                                                      Bài 2: Lá lốt và rễ các cây bưởi bung, vòi voi, cỏ xước, tất cả đều dùng tươi thái mỏng, sao vàng, liều lượng bằng nhau (khoảng 15g khô mỗi loại), sắc với 600ml nước, còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.
                                                                                                                      Bài 3: Lá lốt 20g, thiên niên kiện 12g, gai tầm xoong 16g, tất cả sắc với 400ml, còn 100ml dùng uống trong ngày. Có thể dùng một trong các bài thuốc này, sắc uống liên tục 7-8 ngày sẽ có tác dụng tốt. (theo BS. Vũ Nguyên Khiết).
                                                                                                                      11-Chữa bệnh phụ khoa (các viêm nhiễm ở vùng âm đạo, ngứa, ra khí hư):
                                                                                                                       Lá lốt 50g, nghệ 40g, phèn chua 20g, đổ nước ngập lên mặt thuốc 2 đốt ngón tay, đun sôi, bớt lửa giữ cho sôi lăn tăn 10-15 phút, chắt lấy 1 bát, gạn lấy nước trong dùng rửa âm đạo. Phần còn lại tiếp tục đun sôi dùng để xông hơi vào âm đạo, có thể xông nhiều lần. (theo BS. Vũ Nguyên Khiết).
                                                                                                                      12-Chữa đổ mồ hôi nhiều ở tay chân:
                                                                                                                      Dùng 30g lá lốt tươi cho vào 1 lít nước nấu sôi, cho thêm ít muối, để nguội dần dùng ngâm hai bàn tay, hai bàn chân thường xuyên trước khi đi ngủ tối. (theo BS. Vũ Nguyên Khiết).
                                                                                                                      13-Chữa lỵ:
                                                                                                                      Lấy 1 nắm nhỏ lá lốt, sắc với 300ml nước, dùng uống. (theo BS. Vũ Nguyên Khiết).
                                                                                                                      14-Chữa bệnh tổ đỉa ở bàn tay:
                                                                                                                      Đồng bào Mường có kinh nghiệm lấy 1 nắm thật to lá lốt, rửa sạch, giã nát, vắt lấy 1 bát nước đặc, uống làm một lần. Còn bã cho vào nồi đun với 3 bát nước, đun sôi vài lần rồi vớt bã để riêng. Khi nước âm ấm thì dùng rửa sạch tổ đỉa. Lau khô rồi lấy bã đắp lên, băng lại. Ngày làm 1-2 lần, liên tục trong 5-7 ngày là khỏi. (theo BS. Vũ Nguyên Khiết).
                                                                                                                    25. Lá mơ
                                                                                                                    26. Nhãn lồng (lạc tiên)
                                                                                                                    27. Quả gấc
                                                                                                                    28. Rau Bò khai
                                                                                                                    29. Rau mồng tơi
                                                                                                                    30. Đậu rồng
                                                                                                                    31. Đậu ván
                                                                                                                    32. Đọt choại
                                                                                                                      Dây choại

                                                                                                                      Đọt choại 

                                                                                                                      Rau đọt choại
                                                                                                                      -Tên gọi khác: Ray chạy, rau choại, đọt chạy, đọt choại, dây choại, rau tàu bay
                                                                                                                      -Tên tiếng Anh: Polypody plant, Rockcap fernEpiphytic fern, Rhizome long-creeping.
                                                                                                                      -Tên khoa học: Stenochlaena palustris (Burm. f.) Bedd.
                                                                                                                      -Tên đồng nghĩa: Polypodium palustre Burm. f.
                                                                                                                      -Loài tương cận: Dây choại Hải nam (Stenochlaena hainanensis, Ching & P.S.Chiu).

                                                                                                                      Phân loại khoa học

                                                                                                                      Giới (regnum):Thực vật (Plantae)
                                                                                                                      Ngành (division):Dương xỉ (Pteridophyta)
                                                                                                                      Lớp (class):Dương xỉ (Pteridopsida)
                                                                                                                      Bộ (order):Dương xỉ (Blechnales)
                                                                                                                      Họ (family):Dương xỉ lá dừa (Blechnaceae)
                                                                                                                      Chi (genus):Dây choại (Stenochlaena)
                                                                                                                      Loài (species):Dây choại: Stenochlaena palustris 

                                                                                                                      Cây Rau choại thuộc:
                                                                                                                      -Ngành Dương xỉ (Pteridophyta), có 5 Lớp với khoảng 12.000 loài.
                                                                                                                      -Lớp Dương xỉ thật sự (Pteridopsida), có 7 Bộ với khoảng 9.500 loài.
                                                                                                                      -Bộ Dương xỉ (Blechnales), có 7 Họ với khoảng 7.500 loài.
                                                                                                                      -Họ Dây choại (Blechnaceae), có 60 Chi với khoảng 1.000 loài.
                                                                                                                      -Chi Dây choại (Stenochlaena) với khoảng 75-100 loài.
                                                                                                                      -Loài Dây choại: Stenochlaena palustris (Burm. f.) Bedd.

                                                                                                                      Phân bố

                                                                                                                      Chi Rau choại có nguồn gốc từ Ấn Độ, phân bố rộng ở Nam Á (Ấn Độ), Đông Nam Á (Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mã Lai, Indonesia), Trung Quốc (Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam), Australia và đảo Samoa (Nam Thái Bình Dương).
                                                                                                                      Rau choại là loài thực vật thân thảo dây leo sống hoang dại trong rừng ẩm nhiệt đới (với độ cao đến 400 m) và vùng ven sông rạch nước ngọt, nước lợ và nước mặn có dao động thủy triều.
                                                                                                                      Ở Việt Nam dây choại có nhiều ở vùng Đồng Tháp Mười, Cà Mau, Hậu Giang, Rạch Giá. 
                                                                                                                      Cho đến hiện nay không có tài liệu nói nơi nào trên thế giới đã trồng loài cây này!

                                                                                                                      Mô tả

                                                                                                                      Dương xỉ thuộc Ngành thực vật không có hoa thật. Việc sinh sản hữu tính nhờ vào các bào tử phát triển ở mặt dưới lá sinh sản.
                                                                                                                      Vòng đời của các cây thuộc Bộ dương xỉ (Blechnales) nói chung và Họ Dây choại (Blechnaceae) nói riêng có các đặc điểm như sau:
                                                                                                                      1-Pha thể bào tử (lưỡng bội) sinh ra các bào tử đơn bội nhờ phân bào giảm nhiễm.
                                                                                                                      2-Bào tử phát triển nhờ phân bào có tơ thành thể giao tử, thông thường bao gồm một nguyên tản có khả năng quang hợp.
                                                                                                                      3-Thể giao tử sinh ra các giao tử (thường bao gồm cả tinh trùng và trứng trên cùng một nguyên tản) nhờ phân bào có tơ.
                                                                                                                      4-Tinh trùng linh động, có tiên mao (lông roi) thụ tinh cho trứng vẫn còn gắn chặt với nguyên tản.
                                                                                                                      5-Trứng đã thụ tinh là hợp tử lưỡng bội và phát triển nhờ phân bào có tơ thành thể bào tử (cây "dương xỉ" điển hình mà chúng ta vẫn thấy.
                                                                                                                      Với dây choại (Stenochlaena palustris) có đặc điểm mô tả như sau:
                                                                                                                      +Thân: Có hai đạng thân:
                                                                                                                      -Thân ngầm: Như dạng củ, mọc ngầm trong đất. Chính thân ngầm là nơi sản sinh các non từ gốc. Loại chồi này là hình thức chủ yếu trong một bụi dây choại.
                                                                                                                      -Thân khí sinh: Là loại chồi mọc từ thân ngầm và phát triển thành dây leo thân thảo. Loài dây này ít khi phân nhánh trên thân leo. Trong kinh nghiệm dân gian muốn cây mọc nhánh mới phải đập dập nát phần ngọn hay phần phía cuối đoạn dây bị cắt. 
                                                                                                                      Thân dây leo có khả năng leo leo (hoặc bò) rất xa, dài tới 15-20 m, thân có vẩy hơi thưa, xếp lợp. Đọt non (mọc từ gốc) có dạng uốn cong và cuộn chặt nhiều vòng, thân bên dưới cuộn xoắn mềm và dài tới 40-50 cm, chính đọt non mọc từ gốc mới có giá trị làm rau ngon nhất, khi đọt non phát triển các vòng tháo dần ra, phần thân già hóa xơ và rất bền chắc.
                                                                                                                      +Lá: Lá kép lông chim, mọc so le cách quãng nhau, cuống dài 7-20cm, gân lá chính dài 30-50cm, mổi bên có khoảng 15 lá kép xếp hàng răng lượt giống như lá dừa, phiến lá chét dài 10-15 cm, rộng 3 cm. Khi mới mọc lá cũng uốn cong nhiều vòng sau đó thẳng dần từ gốc lá. Sự bung ra của lá như vậy gọi là kiểu xếp lá hình thoa.
                                                                                                                      Lá được chia ra thành ba loại:
                                                                                                                      -Lá dinh dưỡng (Trophophyll): Là lá không sinh ra bào tử, vì thế nó chỉ sản xuất các chất đường nhờ quang hợp. Nó tương tự như các lá xanh điển hình của thực vật có hoa.
                                                                                                                      -Lá sinh sản hay lá bào tử (Sporophyll): Lá này sinh ra bào tử màu vàng nâu ở mặt dươi phiến lá. Loại lá này có chức năng tương tự như các vảy của nón thông ở thực vật hạt trần hay như nhị và nhụy ở thực vật hạt kín. Tuy nhiên, không gióng như thực vật có hoa, các lá bào tử của dương xỉ thông thường không chuyên biệt hóa, trông tương tự như các lá dinh dưỡng và cũng sản xuất các chất đường bột nhờ quang hợp, giống như các lá dinh dưỡng.
                                                                                                                      -Lá sinh sản đặc biệt (Brophophyll): Lá có kích thước khá lớn so với lá sinh sản và lá bình thường, nó sinh ra một lượng lớn bất thường các bào tử. Hình dạng của nó cũng giống như các lá dinh dưỡng.
                                                                                                                      Thể giao tử của dương xỉ lại rất khác biệt với các thể giao tử của thực vật có hạt. Chúng thông thường bao gồm:
                                                                                                                      Nguyên tản có cấu trúc màu xanh lục, có khả năng quang hợp, dày một lớp tế bào, thường có dạng hình tim hay hình thận, dài 3–10 mm và rộng 2–8 mm. Nguyên tản sinh ra các thể giao tử nhờ:
                                                                                                                      -Các túi đực: Các cấu trúc nhỏ hình cầu sinh ra tinh trùng có tiên mao.
                                                                                                                      -Các túi noãn: Cấu trúc hình bình thót cổ sinh ra một trứng ở đáy, và tinh trùng tiến tới được chỗ đó bằng cách chui qua cổ.
                                                                                                                      +Rễ: Có cấu trúc không quang hợp mọc ngầm dưới đất, có chức năng hút nước và các chất dinh dưỡng từ trong đất. Chúng luôn luôn là rễ chùm và về cấu trúc thì tương tự như rễ của thực vật có hạt.
                                                                                                                      Các rễ giả: Các cấu trúc tương tự như rễ (không phải rễ thật sự) bao gồm các tế bào đơn lẻ thuôn cực dài, có khả năng hút  nước và các khoáng chất trên toàn bộ bề mặt cấu trúc này. Các rễ giả cũng có tác dụng neo thân vào vật bám hay trong đất.

                                                                                                                      Thành phần hóa học

                                                                                                                      Tác giả chưa tìm được tài liệu về thành phần hóa học của rau choại. Nếu đọc giả có nguồn tài liệu về thành phần hóa học của đọt choại xin vui lòng giúp đở, gởi về địa chỉ e-mail hodinhhai@gmail.com

                                                                                                                      Công dụng

                                                                                                                      a-Lá và đọt non dây choại dùng làm rau
                                                                                                                      Ở nhiều nước Châu Á lá và đọt non dây choại được dùng làm rau.
                                                                                                                      Có nhiều cách chế biến đọt và lá choại non:
                                                                                                                      -Dùng làm rau sống: Các chồi non ăn được và dùng trộn giấm (hơi nhớt), ít được ưa chuộng.
                                                                                                                      -Luộc: Là cách chế biến đơn giản nhất ở các nước Đông Nam Á.
                                                                                                                      Có khi hái rau choại về luộc chấm mắm cá cơm pha thêm tỏi với ớt bằm. Vị cay của ớt cùng vị mặn nồng của mắm cá cơm cùng vị chát chát của rau chạy tạo một cảm giác ngon lành. Đây là món ăn phổ biến ở Miền tây Nam Bộ.
                                                                                                                      -Xào: Là cách chế biến phổ biến nhất.
                                                                                                                      Món đọt choại xào thịt bò:
                                                                                                                      Công đoạn xào nấu: Vài tép tỏi đập dập. Thịt bò thái mỏng. Mùi tỏi xào thơm nức bốc lên quyện với mùi thịt bò ngầy ngậy. Muốn thấm đẫm vị béo ngọt của gia vị vào hương vị hoang dã của rau choại, phải xào riêng mớ rau choại trong chiếc chảo khác. Khi cọng rau choại chín tới đâu bỗng thoắt từ màu xanh tím chuyển sang màu đọt chuối. Cọng rau vừa chín tới vì thế có màu bắt mắt hơn lúc còn tươi rất nhiều. Chỉ nên xào vừa chín tới để giữ nguyên độ giòn tan của rau choại như xào rau muống vậy.

                                                                                                                      Đọt choại xào thịt bò
                                                                                                                      Đọt choại xào tép:
                                                                                                                      Trước hết, đọt choại hái về, lặt lấy phần non rửa sạch, để ráo. Cho một ít muối bọt vào nồi cùng với nước lã nấu sôi, rồi thả đọt choại vào trụng nhanh. Lấy đọt choại ra cho vào thau nước lạnh (có pha nước đá) để tăng độ giòn, vớt ra, để ráo. Tiếp đến, bắc chảo lên bếp, phi mỡ tỏi thơm rồi cho tép (đã làm sạch) cùng với gia vị (bột nêm) vào xào chín. Cuối cùng, cho đọt choại (đã trụng sơ) vào. Dùng xạng đảo qua, đảo lại nhiều lần khi thấy đọt choại chín, nhắc xuống, múc ra dĩa. Nhớ thêm một ít hành lá xắt nhuyễn và một ít tiêu xay, và làm thêm một chén nước mắm chanh, tỏi ớt là xong!...
                                                                                                                      -Nấu canh, nhúng lẩu: Là cách thịnh hành nhất hiện nay (là rau rừng cao cấp và hiếm).
                                                                                                                      Canh chua rau choại cũng là một món đặc sản của vùng Đồng Tháp Mười. Loại rau mà có phèn vàng mặt nước vẫn nhởn nhơ lớn lên từng ngày. Vị nhớt cùng vị chát chát, bùi bùi của rau chạy nhà quê hiếm có loại rau trồng nào có được.
                                                                                                                      Ở Thái Lan đọt choại được nấu chung với cà ri, n61u canh hổ hợp và đặc biệt dùng nhúng trong lẩu ngọt và lẩu chua Thái.
                                                                                                                       Sarawak (trên đảo Borneo-Malaysia) nơi có nhiều dây choại, chúng thường được luộc để ăn kèm với mắm tôm.
                                                                                                                      Ở Indonesia người ta cũng ăn rau này, đặc biệt là ở các tỉnh Kalimantan Trung và Kalimantan Nam. Ở đó người ta gọi rau này là "kalakai", rau này quý hiến và được chế thành nhiều món ăn như luộc, xào, nấu canh…
                                                                                                                      Rau choại trong văn chương bình dân:
                                                                                                                      "Rủ nhau lên đất bảy làng
                                                                                                                      Hái rau choại chột, nhổ bàng về đương
                                                                                                                      Choại chột thì chấm nước tương
                                                                                                                      Bàng thì đương nóp người thương tôi nằm."
                                                                                                                      Cao dao vùng Đồng Tháp Mười
                                                                                                                      b-Dùng làm dây bện, dây thừng
                                                                                                                      Thân dây choại rất dài (10-20 m) rất dai và bền, chịu dược lâu trong nước nên được dùng làm dây bện đăng, nò, lộp đánh cá và dây thừng chịu mặn.
                                                                                                                      c-Các bộ phận của dây choại dùng làm thuốc
                                                                                                                      Bộ phận dùng: Thân dây -Thu hái dây lá quanh năm, thường dùng tươi.
                                                                                                                      Ở Indonesia, nhất là các tỉnh Kalimantan Trung và Kalimantan Nam, gười dân tại các nơi đó tin là loại rau này tốt cho sức khoẻ, đặt biệt là cung cấp nguồn chất sắt, và trị được các bệnh về da, sốt rét, sốt và duy trì tuổi thanh xuân.
                                                                                                                      Ở Malaixia, người ta dùng nước sắc của cây và dịch của nó để uống trị các cơn sốt, nước hãm cây dùng đắp vào đầu để hạ nhiệt, làm mát.
                                                                                                                                                                                  1. Bông điên điển
                                                                                                                                                                                  2. Bồ ngót
                                                                                                                                                                                  3. Cây chùm ngây
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây
                                                                                                                                                                                    -Tên gọi khác: Cây kỳ diệu (tên từ nước ngoài), Cây cải ngựa (từ nước ngoài)
                                                                                                                                                                                    -Tên tiếng Anh: Moringa tree, Drumstick tree, Horseradish tree, Indian   Horseradish treeben oil tree.
                                                                                                                                                                                    -Tên khoa học: Moringa oleifera Lam.
                                                                                                                                                                                    -Tên đồng nghĩa: Moringa pterygosperma.
                                                                                                                                                                                    -Các loài tương cận:
                                                                                                                                                                                    Moringa arborea (Chùm ngây Ấn Độ)
                                                                                                                                                                                    Moringa stenopetala (Chùm ngây Châu Phi)

                                                                                                                                                                                    Phân loại khoa học


                                                                                                                                                                                    Bộ (ordo):Cải (Brassicales)
                                                                                                                                                                                    Họ (familia):Chùm ngây (Moringaceae)
                                                                                                                                                                                    Chi (genus):Chùm ngây (Moringa)
                                                                                                                                                                                    Loài (species):Chùm ngây: Moringa oleifera

                                                                                                                                                                                    Chi Chùm ngây (Moringa) có 13 loài, tất cả trong số chúng đều là các cây thân gỗ nhỏ, sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Khu vực phân bổ chủ yếu của chúng là Đông bắc và Tây nam Châu Phi, Madagascarbán đảo Ả Rập và Nam Á.
                                                                                                                                                                                    Có 2 loài phổ biến nhất là:
                                                                                                                                                                                    -Cây Chùm ngây (cải ngựa) (Moringa oleifera), có nguồn gốc ở vùng Nam Á từ khu vực thuộc bang Kerala của Ấn Độ. Loài cây này đã có lịch sử trồng trọt tới hơn 4.000 năm. Nó rất phổ biến ở Châu Á và Châu Phi.
                                                                                                                                                                                    -Cây chùm ngây Châu Phi (Moringa stenopetala) ít phổ biến hơn.
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây (Moringa oleifera) được trồng ở những vùng đất khô, nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới. Cây này chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc, chịu được hạn hán.
                                                                                                                                                                                    Trong hầu hết các bộ phận của cây đều chứa các chất mà con người cần như: Khoáng chất, vitamin, các axit amin, bêta-caroten, phenolics...
                                                                                                                                                                                    Cây Chùm Ngây rất phổ thông ở Ấn Độ và được dân tộc Ấn trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh (Tree of Life). Các nhà dược học, các nhà khoa học nghiên cứu thực vật học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu (Miracle Tree).

                                                                                                                                                                                    Phân bố

                                                                                                                                                                                    Bản địa của cây chùm ngây là ở vùng sơn cước Hi Mã Lạp Sơn ở Tây bắc Ấn Độ nhưng ngày nay được trồng rộng rãi ở Châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, và Đông Nam Á (Campuchia, Malaysia, Indonesia).
                                                                                                                                                                                    Loài cây Chùm ngây (Moringa oleifera) được mọc hoang và trồng tại nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới Châu Á và là loài duy nhất của Chi Chùm ngây có mặt tại Việt Nam.
                                                                                                                                                                                    Cây Chùm ngây (Moringa oleifera), có ở Việt Nam ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận) nhưng trong vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập.
                                                                                                                                                                                    Ở Việt Nam cây chùm ngây được trồng nhiều ở tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận nhưng cũng có mặt ở nững tỉnh khác như Thanh Hóa và đang được mở rộng ở khắp cả nước.
                                                                                                                                                                                    Có thể nói chùm ngây là một loài cây đa dụng; mỗi bộ phận đều có thể dùng được.

                                                                                                                                                                                    Mô tả

                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây (Moringa oleifera) thuộc loài cây tiểu mọc, sống ở môi trường khô ráo, không thích nghi môi trường úng nước.
                                                                                                                                                                                    -Thân: Là cây thân gổ nhỏ, cao 5-6 m (có thể đến 10 m), phân cành nhiều.
                                                                                                                                                                                    -Lá: Lá kép ba lần dạng lông chim, dài 30-60 cm, lá chét hình tròn hay hình trái xoan, dài 10-12 cm, màu xanh lục mốc, không lông, mọc đối từ 6-9 đôi, lá bẹ bao lấy chồi.
                                                                                                                                                                                    -Hoa: Hoa màu trắng, to, có cuống, mọc thành chùy ở nách lá, trông hơi giống hao hoa Đậu, 5 cánh hoa, dảnh lên; 5 tiểu nhị thụ, xen với 5 tiểu nhị lép; noãn sào 1 buồng, đính phôi trắc mô ba, có hương thơm, hoa nấu ăn được. Sau trồng 8 tháng là cây bắt đầu cho hoa. Mùa hoa tháng 1.
                                                                                                                                                                                    -Quả: Quả nang treo, dài 25-30 cm (có khi đến 55 cm), ngang 2-3 cm, có hình dáng giống quả đậu Cô ve, có 3 mảnh, dọc theo quả có khía rãnh.
                                                                                                                                                                                    -Hạt: Quả cho nhiều hột tròn, có 3 cạnh, cở hạt đậu Hà Lan, cở 0,5 cm, có cánh mỏng bao quanh.
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây được trồng ở những vùng đất khô, nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới. Cây này chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc, chịu được hạn hán.
                                                                                                                                                                                    Ở Việt Nam Cây chùm ngây trồng được ở cao độ dưới 500 m; lá ăn được như rau, trái (nạc nương) dùng làm bột cà ri; dầu từ hột ăn được, có tính làm giảm sự thụ thai. Cây gặp ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc”.

                                                                                                                                                                                    Hoa cây chùm ngây

                                                                                                                                                                                    Quả cây chùm ngây xanh

                                                                                                                                                                                    Quả cây chùm ngây chín


                                                                                                                                                                                    Thành phần hóa học

                                                                                                                                                                                    a-Theo phân tích của người Pháp:
                                                                                                                                                                                    Đầu thập niên 1950, Vialard Goudou đã phân tích lá Chùm ngây mà nhân dân Việt Nam bán ở các chợ để làm rau ăn, cho thấy lá cây chùm ngây rất giàu dinh dưỡng, nhất là chất đạm, chất sắt và sinh tố C.
                                                                                                                                                                                    Lá Chùm ngây tươi chứa 6,35 g% chất đạm, 1,7 g% chất béo, 8 g% bột đường; 1,9 g% chất xơ; 3,75 g% chất khoáng; 50 mg% phosphor; 25 mg% natri; 216 mg% kali; 122 mg% calci; 123 mg% magnesium; 0,1 mg% đồng, 16,4 mg% sắt, 6.250 UI% sinh tố A; 0,3 mg% B2; 2,3 mg% PP và 110 mg% sinh tố C.
                                                                                                                                                                                    Sách Nghiên cứu y học cổ truyền Đông Dương (Les Plantes Médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam) của Alfred Petelot, Saigon 1953, cho thấy tất cả bộ phận của cây đều chứa một chất glycosid có vị cay cay giống như hột Cải cay (mù tạc).
                                                                                                                                                                                    Thân, cành và vỏ rễ Chùm ngây chứa moringin (= belzylamil), moringinin, athonin, spirochin, pterigospermin.
                                                                                                                                                                                    Chất gôm tiết từ thân cây Chùm ngây chứa polyuronid gồm arabinoz, galactoz, rhamnoz, glycuronic acid. Mùi Cải ngựa và rễ Chùm ngây là do chất benzyl - isothiocyanat.
                                                                                                                                                                                    b-Theo phân tích của người Mỹ
                                                                                                                                                                                    Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), thành phần chất dinh dưỡng trong cây Chùm ngây (Moringa oleiferanhư sau:
                                                                                                                                                                                    +Trong 100 gam lá tươi của cây Chùm ngây có:

                                                                                                                                                                                    Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam lá tươi
                                                                                                                                                                                    Năng lượng
                                                                                                                                                                                    64 kcal (270 kJ)
                                                                                                                                                                                    Carbohydrates
                                                                                                                                                                                    8.28 g
                                                                                                                                                                                    - Chất xơ
                                                                                                                                                                                    2.0 g
                                                                                                                                                                                    Chất béo
                                                                                                                                                                                    1.40 g
                                                                                                                                                                                    Protein
                                                                                                                                                                                    9.40 g
                                                                                                                                                                                    Nước
                                                                                                                                                                                    78.66 g
                                                                                                                                                                                    Vitamin A equiv.
                                                                                                                                                                                    378 μg (47%)
                                                                                                                                                                                    Thiamine (vit. B1)
                                                                                                                                                                                    0.257 mg (22%)
                                                                                                                                                                                    Riboflavin (vit. B2)
                                                                                                                                                                                    0.660 mg (55%)
                                                                                                                                                                                    Niacin (vit. B3)
                                                                                                                                                                                    2.220 mg (15%)
                                                                                                                                                                                    Pantothenic acid (B5)
                                                                                                                                                                                    0.125 mg (3%)
                                                                                                                                                                                    Vitamin B6
                                                                                                                                                                                    1.200 mg (92%)
                                                                                                                                                                                    Folate (vit. B9)
                                                                                                                                                                                    40 μg (10%)
                                                                                                                                                                                    Vitamin C
                                                                                                                                                                                    51.7 mg (62%)
                                                                                                                                                                                    Calcium
                                                                                                                                                                                    185 mg (19%)
                                                                                                                                                                                    Iron
                                                                                                                                                                                    4.00 mg (31%)
                                                                                                                                                                                    Magnesium
                                                                                                                                                                                    147 mg (41%)
                                                                                                                                                                                    Manganese
                                                                                                                                                                                    0.36 mg (17%)
                                                                                                                                                                                    Phosphorus
                                                                                                                                                                                    112 mg (16%)
                                                                                                                                                                                    Potassium
                                                                                                                                                                                    337 mg (7%)
                                                                                                                                                                                    Sodium
                                                                                                                                                                                    9 mg (1%)
                                                                                                                                                                                    Zinc
                                                                                                                                                                                    0.6 mg (6%)
                                                                                                                                                                                    Ghi chú: Tỷ lệ % so với nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US recommendations .
                                                                                                                                                                                    Nguồn: USDA Nutrient Database

                                                                                                                                                                                    +So sánh chất dinh dưỡng trong lá cây chùm ngây với một số thực phẩm khác

                                                                                                                                                                                    Chất dinh dưỡng
                                                                                                                                                                                    Thực phẩm thông dụng
                                                                                                                                                                                    Lá cây chùm ngây
                                                                                                                                                                                    Vitamin ACủ Carrot
                                                                                                                                                                                    1.8 mg
                                                                                                                                                                                    6.8 mg
                                                                                                                                                                                    CalciumSữa
                                                                                                                                                                                    120 mg
                                                                                                                                                                                    440 mg
                                                                                                                                                                                    PotassiumChuối
                                                                                                                                                                                    88 mg
                                                                                                                                                                                    259 mg
                                                                                                                                                                                    ProteinYogurt
                                                                                                                                                                                    3.1 g
                                                                                                                                                                                    6.7 g
                                                                                                                                                                                    Vitamin CCam
                                                                                                                                                                                    30 mg
                                                                                                                                                                                    220 mg

                                                                                                                                                                                    +Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam hạt tươi

                                                                                                                                                                                    Thành phần trong 100 gam hạt tươi
                                                                                                                                                                                    Năng lượng
                                                                                                                                                                                    37 kcal (150 kJ)
                                                                                                                                                                                    Carbohydrates
                                                                                                                                                                                    8.53 g
                                                                                                                                                                                    - Chất xơ
                                                                                                                                                                                    3.2 g
                                                                                                                                                                                    Chất béo
                                                                                                                                                                                    0.20 g
                                                                                                                                                                                    Protein
                                                                                                                                                                                    2.10 g
                                                                                                                                                                                    Nước
                                                                                                                                                                                    88.20 g
                                                                                                                                                                                    Vitamin A equiv.
                                                                                                                                                                                    4 μg (1%)
                                                                                                                                                                                    Thiamine (vit. B1)
                                                                                                                                                                                    0.0530 mg (5%)
                                                                                                                                                                                    Riboflavin (vit. B2)
                                                                                                                                                                                    0.074 mg (6%)
                                                                                                                                                                                    Niacin (vit. B3)
                                                                                                                                                                                    0.620 mg (4%)
                                                                                                                                                                                    Pantothenic acid (B5)
                                                                                                                                                                                    0.794 mg (16%)
                                                                                                                                                                                    Vitamin B6
                                                                                                                                                                                    0.120 mg (9%)
                                                                                                                                                                                    Folate (vit. B9)
                                                                                                                                                                                    44 μg (11%)
                                                                                                                                                                                    Vitamin C
                                                                                                                                                                                    141.0 mg (170%)
                                                                                                                                                                                    Calcium
                                                                                                                                                                                    30 mg (3%)
                                                                                                                                                                                    Iron
                                                                                                                                                                                    0.36 mg (3%)
                                                                                                                                                                                    Magnesium
                                                                                                                                                                                    45 mg (13%)
                                                                                                                                                                                    Manganese
                                                                                                                                                                                    0.259 mg (12%)
                                                                                                                                                                                    Phosphorus
                                                                                                                                                                                    50 mg (7%)
                                                                                                                                                                                    Potassium
                                                                                                                                                                                    461 mg (10%)
                                                                                                                                                                                    Sodium
                                                                                                                                                                                    42 mg (3%)
                                                                                                                                                                                    Zinc
                                                                                                                                                                                    0.45 mg (5%)
                                                                                                                                                                                    Ghi chú: Tỷ lệ % so với nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US recommendations .
                                                                                                                                                                                    Nguồn: USDA Nutrient Database

                                                                                                                                                                                    c-Theo phân tích của Campden and Chorleywood Food Research Association 
                                                                                                                                                                                    Bảng phân tích hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột khô của lá cây Chùm Ngây theo báo cáo ngày 17/7/1998 của Campden and Chorleywood Food Research Association.

                                                                                                                                                                                    BẢNG PHÂN TÍCH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG CỦA CHÙM NGÂY
                                                                                                                                                                                    STTThành phần dinh dưỡng/100grQuả tươiLá tươiBột lá khô
                                                                                                                                                                                    01Water ( nước ) %
                                                                                                                                                                                    86,9 %
                                                                                                                                                                                    75,0 %
                                                                                                                                                                                    7,5 %
                                                                                                                                                                                    02calories
                                                                                                                                                                                    26
                                                                                                                                                                                    92
                                                                                                                                                                                    205
                                                                                                                                                                                    03Protein ( g )
                                                                                                                                                                                    2,5
                                                                                                                                                                                    6,7
                                                                                                                                                                                    27,1
                                                                                                                                                                                    04Fat ( g ) ( chất béo )
                                                                                                                                                                                    0,1
                                                                                                                                                                                    1,7
                                                                                                                                                                                    2,3
                                                                                                                                                                                    05Carbohydrate ( g )
                                                                                                                                                                                    3,7
                                                                                                                                                                                    13,4
                                                                                                                                                                                    38,2
                                                                                                                                                                                    06Fiber ( g ) ( chất xơ )
                                                                                                                                                                                    4,8
                                                                                                                                                                                    0,9
                                                                                                                                                                                    19,2
                                                                                                                                                                                    07Minerals ( g ) ( chất khoáng )
                                                                                                                                                                                    2,0
                                                                                                                                                                                    2,3
                                                                                                                                                                                    _
                                                                                                                                                                                    08Ca ( mg )
                                                                                                                                                                                    30
                                                                                                                                                                                    440
                                                                                                                                                                                    2003
                                                                                                                                                                                    09Mg ( mg )
                                                                                                                                                                                    24
                                                                                                                                                                                    25
                                                                                                                                                                                    368
                                                                                                                                                                                    10P ( mg )
                                                                                                                                                                                    110
                                                                                                                                                                                    70
                                                                                                                                                                                    204
                                                                                                                                                                                    11K ( mg )
                                                                                                                                                                                    259
                                                                                                                                                                                    259
                                                                                                                                                                                    1324
                                                                                                                                                                                    12Cu ( mg )
                                                                                                                                                                                    3,1
                                                                                                                                                                                    1,1
                                                                                                                                                                                    0,054
                                                                                                                                                                                    13Fe ( mg )
                                                                                                                                                                                    5,3
                                                                                                                                                                                    7,0
                                                                                                                                                                                    28,2
                                                                                                                                                                                    14S ( g )
                                                                                                                                                                                    137
                                                                                                                                                                                    137
                                                                                                                                                                                    870
                                                                                                                                                                                    15Oxalic acid ( mg )
                                                                                                                                                                                    10
                                                                                                                                                                                    101
                                                                                                                                                                                    1,6
                                                                                                                                                                                    16Vitamin A - Beta Carotene (mg)
                                                                                                                                                                                    0,11
                                                                                                                                                                                    6,8
                                                                                                                                                                                    1,6
                                                                                                                                                                                    17Vitamin B - choline ( mg )
                                                                                                                                                                                    423
                                                                                                                                                                                    423
                                                                                                                                                                                    -
                                                                                                                                                                                    18Vitamin B1 - thiamin ( mg )
                                                                                                                                                                                    0,05
                                                                                                                                                                                    0,21
                                                                                                                                                                                    2,64
                                                                                                                                                                                    19Vitamin B2 - Riboflavin ( mg )
                                                                                                                                                                                    0,07
                                                                                                                                                                                    0,05
                                                                                                                                                                                    20,5
                                                                                                                                                                                    20Vitamin B3 - nicotinic acid (mg)
                                                                                                                                                                                    0,2
                                                                                                                                                                                    0,8
                                                                                                                                                                                    8,2
                                                                                                                                                                                    21Vitamin C - ascorbic acid ( mg )
                                                                                                                                                                                    120
                                                                                                                                                                                    220
                                                                                                                                                                                    17,3
                                                                                                                                                                                    22Vitamin E - tocopherol acetate
                                                                                                                                                                                    -
                                                                                                                                                                                    -
                                                                                                                                                                                    113
                                                                                                                                                                                    23Arginine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    3,66
                                                                                                                                                                                    6,0
                                                                                                                                                                                    1,33 %
                                                                                                                                                                                    24Histidine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    1,1
                                                                                                                                                                                    2,1
                                                                                                                                                                                    0,61%
                                                                                                                                                                                    25Lysine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    1,5
                                                                                                                                                                                    4,3
                                                                                                                                                                                    1,32%
                                                                                                                                                                                    26Tryptophan ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    0,8
                                                                                                                                                                                    1,9
                                                                                                                                                                                    0,43%
                                                                                                                                                                                    27Phenylanaline ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    4,3
                                                                                                                                                                                    6,4
                                                                                                                                                                                    1,39 %
                                                                                                                                                                                    28Methionine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    1,4
                                                                                                                                                                                    2,0
                                                                                                                                                                                    0,35%
                                                                                                                                                                                    29Threonine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    3,9
                                                                                                                                                                                    4,9
                                                                                                                                                                                    1,19 %
                                                                                                                                                                                    30Leucine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    6,5
                                                                                                                                                                                    9,3
                                                                                                                                                                                    1,95%
                                                                                                                                                                                    31Isoleucine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    4,4
                                                                                                                                                                                    6,3
                                                                                                                                                                                    0,83%
                                                                                                                                                                                    32Valine ( g/16gN )
                                                                                                                                                                                    5,4
                                                                                                                                                                                    7,1
                                                                                                                                                                                    1,06%
                                                                                                                                                                                    d- Theo các nguồn phân tích khác
                                                                                                                                                                                    -Lá chứa: Các hợp chất loại flanonoids và phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside.
                                                                                                                                                                                    -Rễ chứa: Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl glucosinolate (chừng 1%) sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate. Glucotropaeolin (chừng 0.05%) sẽ cho benzylisothiocyanate.
                                                                                                                                                                                    -Hạt chứa: Glucosinolates ( như trong rễ) : có thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo.Các acid loại phenol carboxylic như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate.Dầu béo (20-50%) : phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%), stearic acid (3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và lignoceric acid…
                                                                                                                                                                                    Vài số liệu so sánh chất dinh dưỡng ở lá chùm ngây
                                                                                                                                                                                    -Vitamin C gấp 7 lần nhiều hơn trái Cam 
                                                                                                                                                                                    -Vitamin A gấp 4 lần nhiều hơn Cà-rốt 
                                                                                                                                                                                    -Calcium gấp 4 lần nhiều hơn sữa 
                                                                                                                                                                                    -Chất sắt gấp 3 lần so với cải bó xôi 
                                                                                                                                                                                    -Chất đạm (protein) gấp 2 lần nhiều hơn Ya-ua 

                                                                                                                                                                                    So sánh dinh dưỡng của lá chùm ngây với thực phẩm khác

                                                                                                                                                                                    Công dụng

                                                                                                                                                                                    a-Đọt non, lá non, hoa và quả, hạt non của cây được dùng làm rau
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây (Moringa oleiferalà một loài thực vật được trồng và thu hoạch như một loại rau sạch vừa là cây thuốc có giá trị.
                                                                                                                                                                                    Các bộ phận dùng làm rau gồm:
                                                                                                                                                                                    -Đọt và lá non: Được dùng làm rau phổ biến ở Việt Nam, Cam-pu-chia, Phi-líp-pin, Nam Ấn Độ, Sri Lanka và Châu Phi.
                                                                                                                                                                                    -Búp hoa: Được làm rau xào hoặc nấu như đậu Hà Lan.
                                                                                                                                                                                    -Hoa: Có thể ăn được khi nấu chín và có mùi như nấm.
                                                                                                                                                                                    -Quả và hạt non: Được gọi là "đùi", được dùng làm ra phổ biến ở Châu Á và Châu Phi. Trong vỏ hạt rất giàu vitamin C và vitamin B và các khoáng chất. Quả và hạt non ăn như Đậu Hà Lan.
                                                                                                                                                                                    Hoa, lá và cành non, trái non đều luộc ăn được, lại có kích thích tiêu hóa và có tính kháng sinh (nhờ chất lacton: ptyrigospermin).
                                                                                                                                                                                    Lá cây chùm ngây được xem là phần bổ dưỡng nhất của của cây, là một nguồn quan trọng của vitamin B6, vitamin C, tiền vitamin A như beta-carotene, magiê và protein, trong số các chất dinh dưỡng khác theo báo cáo của USDA điều rất cao.
                                                                                                                                                                                    -Ở phương Tây, các lá được nấu chín và được sử dụng như rau bina. Ngoài được sử dụng tươi thay thế cho rau bina, lá của nó còn được sấy khô và nghiền thành bột được sử dụng trong súp và nước sốt. Điều quan trọng là phải nhớ rằng giống như hầu hết các loài rau khi nhiệt độ trên 140 độ F sẽ phá hủy một số chất dinh dưỡng.
                                                                                                                                                                                    -Ở Nam Ấn Độ và Sri Lanka, các đọt non của cây chùm ngây được chiên, hoặc nấu cà ri với nước cốt dừa, hạt poppy để tăng thêm hương vị của món cà ri chua hay ngọt. Bẹ lá được để nguiye6n hoặc xắt nhỏ để trang trí cho các món rau và sa lát để tăng thêm hương vị. Lá được sử dụng thay thế hoặc cùng với rau mùi.
                                                                                                                                                                                    Ở một số vùng, những bông hoa được thu gom và làm sạch để nấu chín với các món xào besan và pakoras.
                                                                                                                                                                                    -Ở Bangladesh, đọt cây chùm ngây được dùng để nấu các món cà ri, sambars, kormas và anddals như ở Ấn Độ, ngoài ra nó còn được dùng để tăng hương vị cho các món nấu với thịt và nhiều món ăn khác. Thị quả và hạt non được dùng để nấu canh, Lá non được chiên với tôm hoặc thêm vào các món súp cá sang trọng.
                                                                                                                                                                                    -Ở Đông Java (Indonesia) lá và đọt non cây chùm ngây được dùng để nấu món canh chua hoặc súp rau hỗn hợp. Lá có thể được chiên và trộn với thịt cá ngừ (cá Maldive) chiên khô, hành tây và ớt khô. Ở Khu vực Maldives, món súp được nấu từ gạo với lá cây chùm ngây để dùng trong tháng ăn kiêng Ramazan. Quả non được dùng trong món trứng tráng và để nấu món cà ri nhẹ.
                                                                                                                                                                                    -Ở Pakistan, tại khu vực Saraiki Nam Punjab, búp hoa cây chùm ngây được luộc chín, tán nhuyễn và để đông lại, dùng để nêm vào các món ăn ưa thích.
                                                                                                                                                                                    -Ở Thái Lan đọt non, lá và hoa cây chùm ngây dùng để nấu các món cà ri, xào, súp, trứng gà rán và rau trộn. Một trong những món ăn truyền thống nhất là món Cà ri chua Thái  được nấu với cụm hoa và cá.
                                                                                                                                                                                    -Ở Campuchia lá cây chùm ngây được nấu thành món canh gọi là m'rum hoặc súp hỗn hợp được gọi là korko.
                                                                                                                                                                                    -Ở Philippines lá cây chùm ngây được bán phổ biến trên thị trường với giá cả phải chăng. Các lá thường được nấu món súp đơn giản và bổ dưỡng. Các lá đôi khi cũng được sử dụng như là một thành phần đặc trưng trong món intinola, một món canh gà truyền thống của Philippines được nấu bằng thịt gà với lá chùm ngây và đu đủ xanh. Lá cây chùm ngây còn được trộn với dầu ô liu, nước sốt pasta pesto đã trở thành phổ biến trên trường ẩm thực Philippines. Nước trái cây chùm ngây pha chanh dùng làm bánh kẹo và nước đá hoặc thức uống lạnh dược dùng cho những người không ưa thích ăn rau.
                                                                                                                                                                                    -Ở Việt Nam lá cây chùm ngây được dùng trong ẩm để nấu canh. Hoa chùm ngây phơi khô có thể dùng nấu lấy nước uống như một loại tràTrái non được dùng như đậu ve. Khi già, hạt chùm ngây thì có thể đem rang lên và ăn như đậu phộng.

                                                                                                                                                                                    Rau sạch từ hoa cây chùm ngây

                                                                                                                                                                                    Nước giải khát từ lá cây chùm ngây ở Ấn Độ

                                                                                                                                                                                    Trà túi lọc từ cây chùm ngây ở Việt Nam

                                                                                                                                                                                    b-Các bộ phận cây chùm ngây được dùng làm thuốc
                                                                                                                                                                                    b-1-Theo Đông y
                                                                                                                                                                                    Vỏ cây, nhựa cây, rễ, lá, hạt, dầu, và hoa được sử dụng trong y học cổ truyền ở một số nước.
                                                                                                                                                                                    Theo Y học cổ truyền nước ngoài thì các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa.. có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u-bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm.. Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á. (Phytotherapy Research Số 21-2007).
                                                                                                                                                                                    +Ở Ấn Độ:
                                                                                                                                                                                    Cây Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..). Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ.
                                                                                                                                                                                    -Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh.
                                                                                                                                                                                    -Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophyllaCocci niacordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi.
                                                                                                                                                                                    -Thân cây bị vết chặt sẽ tiết ra một gôm trắng đục, sau phơi nắng trở thành hồng hay đỏ nâu ở mặt ngoài. Gôm này có tính trương nở lớn, ở Ấn Độ người ta đã biết dùng làm trương nở cổ tử cung để phá thai (Pharmacographia Indica 1890).
                                                                                                                                                                                    -Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương.
                                                                                                                                                                                    -Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp.
                                                                                                                                                                                    +Ở Pakistan
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Cây Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cách sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như:
                                                                                                                                                                                    -Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ..
                                                                                                                                                                                    -Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở.
                                                                                                                                                                                    -Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..
                                                                                                                                                                                    -Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng..
                                                                                                                                                                                    +Ở cChâu Phi và Indonesia:
                                                                                                                                                                                    -Lá cây chùm ngây được các bà mẹ nuôi con ăn để tin rằng chúng làm tăng tiết sữa.
                                                                                                                                                                                    +Ở Trung Mỹ: 
                                                                                                                                                                                    -Hạt Cây Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán.
                                                                                                                                                                                    +Ở Saudi Arabia:
                                                                                                                                                                                    Hạt Cây Chùm Ngây được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.
                                                                                                                                                                                    +Ở Senegal: Người ta dùng cành, lá sắc uống trị còi xương, viêm cuống phổi, phù nề, thấp khớp.
                                                                                                                                                                                    +Ở Philippines: Người ta dùng rễ làm thuốc đắp thế mù tạc làm tụ máu, nó gây cảm giác rất đau.
                                                                                                                                                                                    Theo Y học cổ truyền Việt Nam thì cành lá cây chùm ngây luộc ăn hay sắc uống kích thích tiêu hóa, kiện vị, trị tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phổi. Rễ Chùm ngây sắc uống, có tác dụng kiện vị; giã đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Mù tạc trị thấp khớp.
                                                                                                                                                                                    Rễ  Cây Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau.
                                                                                                                                                                                    Chú ý! Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý!
                                                                                                                                                                                    Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ  Cây Chùm Ngây  theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa.
                                                                                                                                                                                    Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột, gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.
                                                                                                                                                                                    Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm.
                                                                                                                                                                                    Không nên dùng Rễ  Cây Chùm Ngây  nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. (theo DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ).

                                                                                                                                                                                    Sản phẩm thuốc viên nang từ cây chùm ngây
                                                                                                                                                                                    b-2-Theo Tây y
                                                                                                                                                                                    Cây Chùm Ngây (Moringa oleiferađược xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo thuộc “Thế giới thứ ba” nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Phi Châu.. 
                                                                                                                                                                                    Do là cây rau và cây thuốc còn được mệnh danh là cây Độ Sinh (Tree of Life) hay cây Thần Diệu (Miracle Tree) nên cây chùm ngây là một trong những loài cây rau làm thuốc được nghiên cứu nhiều nhất thế giới.
                                                                                                                                                                                    1-Khả năng kháng sinh diệt vi khuẩn và vi nấm:
                                                                                                                                                                                    -Chất Athonin có tác dụng kháng sinh trên vi trùng dịch tả (Vibrio cholerae) và hoạt tính của nó nằm giữa chloromycetin và streptomycin (Sen Gupta và cs 1956).
                                                                                                                                                                                    -Chất Spirochin có tính kháng sinh trên vi khuẩn gram+ nhất là chống Staphyllococcus và Streptococcus (Chatterjee, 1951).
                                                                                                                                                                                    -Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác định tác dụng kháng sinh chống lại nhiều dòng vi khuẩn nhờ hoạt chất Pterigospermin của nó.
                                                                                                                                                                                    -Chất Pterigospermin là kháng sinh quan trọng nhất của cây Chùm ngây, với kháng khuẩn phổ rộng, trên cả vi khuẩn gram+ lẫn gram-: Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilisEscherichia coliAerobacter aerogenesSalmonella typhiSalmonella enteritidisShigella dysenteriaeMycobacterium tuberculosis (Kurup và Narasimha 1954).
                                                                                                                                                                                    -Chất chiết từ vỏ cây có tính kháng sinh trên Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilisDiplococcus pneumoniaeStreptococcus pyogenesEscherichia coliSalmonella typhiVibrio comaShigella dysenteriaeMycobacterium phlei.
                                                                                                                                                                                    Nó cũng ức chế vi nấm Microsporum gypseumTrichophyton mantagrophytesCandida albicansHelminthosporium sativum (Bhatnaga và cs 1961).
                                                                                                                                                                                    -Trích tinh lá bằng ether có tác dụng trụ sinh (bacteriostatic activity) đối với Staphyllococcus aureus và Salmonella typhi (Bhawasa và cs 1965).
                                                                                                                                                                                    -Chất 4 (alpha-L-Rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây (trong hạt Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hàm lượng chất này rất cao: 8 - 10%, với điều kiện trong quá trình tách chiết phải thêm ascorbic acid vào nước trích. Nó có tác dụng kháng sinh với rất nhiều vi khuẩn và vi nấm (Eilert và cs, 1981).
                                                                                                                                                                                    Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l (Planta Medica Số 42-1981).
                                                                                                                                                                                    -Nghiên cứu tại Viện Institute of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại Trichophyton rubrumTrichophyton mentagrophytesEpidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất kháng sinh. (Bioresource Technology Số 98-2007).
                                                                                                                                                                                    2-Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu: 
                                                                                                                                                                                    Nghiên cứu tại Đại Học Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên các thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận : Thỏ cho ăn Chùm Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một hổn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/ phospholipid trong máu..so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin : mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of Ethnopharmacology Số 86-2003). 
                                                                                                                                                                                    3-Giảm bệnh tiểu đường:
                                                                                                                                                                                    Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác định cải thiện dung nạp glucose (glucose tolerance) trên mô hình thí nghiệm chuột mắc bệnh tiểu đường (diabetes), ức chế hoạt động của virus Epstein-Barr trong ống nghiệm (in vitro) và giảm bệnh viêm da do virus (papillomas) ở chuột.
                                                                                                                                                                                    4-Tính kháng ung thư:
                                                                                                                                                                                    Chất chiết bằng cồn của cây Chùm ngây, kể cả rễ, có tính kháng ung thư biểu mô mũi hầu, trên mô cấy và tế bào lymphô P388 của ung thư bạch cầu của Chuột (Dhawan và cs 1980).
                                                                                                                                                                                    5-Các hoạt tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu: 
                                                                                                                                                                                    Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm Ngây đã được nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala City về các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng.
                                                                                                                                                                                    Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Nước trích từ Rễ cũng cho một số kết quả (Journal of Ethnopharmacology Số 36-1992). 
                                                                                                                                                                                    6-Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây: 
                                                                                                                                                                                    Nghiên cứu tại Đại Học Jiwaji, Gwalior (Ấn Độ) về các hoạt tính estrogenic, kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung. Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mô tế bào tử cung. 
                                                                                                                                                                                    Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây được cho là do nhiều yếu tố phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 22-1988). 
                                                                                                                                                                                    7-Các chất gây đột biến genes từ hạt Chùm ngây rang chín: 
                                                                                                                                                                                    Một số các hợp chất các chất gây đột biến genes đã được tìm thấy trong hạt Chùm Ngây rang chín: Các chất quan trọng nhất được xác định là 4 (alpha Lrhamnosyloxy) phenylacetonitrile; 4 - hydroxyphenylacetonitri le và 4 – hydroxyphenyl - acetamide. (Mutation Research Số 224-1989).
                                                                                                                                                                                    8-Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate: 
                                                                                                                                                                                    Thử nghiệm tại Đại Học Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận.
                                                                                                                                                                                    9-Dùng hạt Chùm ngây để lọc nước: 
                                                                                                                                                                                    Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.
                                                                                                                                                                                    Kết quả thử nghiệm lọc nước: Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml (-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).
                                                                                                                                                                                    Lưu ý! Một số canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng như tinh thể calcium oxalate có thể ức chế khả cấp canxi cho cơ thể. Không phải rõ ràng trong việc tính toán lượng canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng khả dụng hay canxi không khả dụng sinh học.
                                                                                                                                                                                    Tóm lại: Cây Chùm ngây có khả năng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa...
                                                                                                                                                                                    Mặc dù trong kinh nghiệp dân gian và Đông y đã có nhiều trải nghiệm thực tiển nhưng về mặt khoa học chính xác cần có thêm nhiều nghiên cứu và kết luận của Tây y, không nên quá chủ quan kỳ vọng thái quá vào các bài thuốc dân gian và Đông dược.
                                                                                                                                                                                    c-Chùm ngây là loài cây chống suy giảm dinh dưỡng
                                                                                                                                                                                    Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3.
                                                                                                                                                                                    Lá non có thể hái làm rau cho con người, tăng thành phần dinh dưỡng và giúp phát triển nông thôn thêm phần tự túc nhất là ở những quốc gia đang phát triển. Được Tổ chức Lương nông thế giới (FAO) khuyến cáo nên trồng và phát triển rộng.
                                                                                                                                                                                    Theo FAO, bằng cách trồng cây chùm ngây, nhà nông có thể tận dụng đất xấu, cây cho nhiều bộ phận giàu dinh dưỡng và được thu hoạch như một loại rau.
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây đã được sử dụng để chống suy dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú.
                                                                                                                                                                                    -Đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, cứ ăn 20g lá chùm ngây tươi là cung ứng 90% Calcium, 100% Vitamin C, Vitamin A, 15% chất sắt, 10% chất đạm cần thiết và hàm luợng Potassium, Đồng…và Vitamin B bổ sung cần thiết cho trẻ.
                                                                                                                                                                                    +Đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chi cần dùng 100g lá tươi mỗi ngày là đủ bổ sung Calcium, Vitamin C, VitaminA, Sắt, Đồng, Magnesium, Sulfur, các vitamin B cần thiết trong ngày.
                                                                                                                                                                                    (Nguồn: http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
                                                                                                                                                                                    Bốn Tổ chức phi chính phủ (NGOs) gồm:
                                                                                                                                                                                    -Church World Service
                                                                                                                                                                                    -Educational Concerns for Hunger Organization
                                                                                                                                                                                    -và Volunteer Partnerships for West Africa đã quan tâm đến nạn suy dinh dưỡng ở thế giới thứ 3 và ủng hộ chủ trương của FAO để cải thiện sức khỏe người nghèo bằng cách phát động trồng nhiều cây chùm ngây.
                                                                                                                                                                                    Các Tổ chức này cho rằng: “ Cây chùm ngây đặc biệt hứa hẹn như là một nguồn thực phẩm ở vùng nhiệt đới bởi vì cây lá mọc đầy đủ vào cuối mùa khô khi các loại thực phẩm khác thường khan hiếm” và “ cây chùm ngây chính là nguồn dinh dưỡng tự nhiên cho vùng nhiệt đới."
                                                                                                                                                                                    c-Các công dụng khác của cây chùm ngây
                                                                                                                                                                                    +Các công dụng thực phẩm khác
                                                                                                                                                                                    -Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics…
                                                                                                                                                                                    -Quả non được dùng như đậu ve.
                                                                                                                                                                                    -Rễ cây được dùng ở Châu Âu làm gia vị kích thích tiêu hóa thế Cải gia vị (Raifort hay Horse Radish - Cải ngựa).
                                                                                                                                                                                    -Hoa chùm ngây phơi khô có thể dùng nấu lấy nước uống như một loại trà.
                                                                                                                                                                                    -Hạt khô chứa loại 38-40% dầu béo ăn được gọi là dầu ben giàu axit behenic, dầu không mùi, chống vị ôi, dược dùng trong thực phẩm, mỹ phẩm và nhiên liệu sinh học.
                                                                                                                                                                                    Hột khô rang ăn (như Đậu phộng); dầu hột Chùm ngây ăn được, thuộc dầu lâu khô nên có thể dùng làm mỹ phẩm hay tá dược.
                                                                                                                                                                                    Ở vùng nhiệt đới, lá chùm ngây được dùng làm thực phẩm cho gia súc.
                                                                                                                                                                                    +Làm nguyên liệu thực phẩm, mỹ phẩm, tân dược và công nghiệp:
                                                                                                                                                                                    Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Cây chùm ngây thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê nước uống, mỹ phẩm cao cấp, và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất.
                                                                                                                                                                                    Nghiên cứu rộng rãi nhất về giá trị của cây chùm ngây được thực hiện tại Trường Đại học Nông Nghiệp Falsalabad, Pakistan cho biết cây chùm ngây là một loài cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây vừa là một nguồn dược liệu và là một nguồn thực phẩm rất tốt. 
                                                                                                                                                                                    Ở Jamaica, nhựa cây được sử dụng cho một loại thuốc nhuộm màu xanh.
                                                                                                                                                                                    Bánh dầu được sử dụng làm phân bón và làm chất khử nước nhờ chất keo kết tụ chất cặn bả trong nước.
                                                                                                                                                                                    +Lá cây chùm ngây dùng để dưỡng da : Tại Mỹ và các nước Châu Âu, cây chùm ngây được sử dụng rộng rãi trong công nghệ dưỡng da, mỹ phẩm cao cấp. 
                                                                                                                                                                                    Cách dùng đơn giản, các bà các cô có thể áp dụng ngay: giã nhuyễn 20g lá, để không hoặc trộn với dầu lấy từ hạt Chùm ngây thoa đắp 2 lần, mỗi lần 7 phút trong một ngày, trong một tuần sẽ thấy hiệu nghiệm. 
                                                                                                                                                                                    Lưu ý! Không nên ủ đắp trên da mặt quá lâu trên 10 phút (theo kinh nghiệm từ quý bà).
                                                                                                                                                                                    +Bột hạt cây chùm ngây dùng để lọc nước: Bột hạt cây chùm ngây được đánh giá có khả năng lọc nước tốt. Người ta nghiền hạt cây chùm ngây khô thành bột rồi hòa với ít nước thành một “dịch cái” rồi tùy theo độ bẩn của nước muốn khử trùng mà pha vào từ 1- 3% dịch cái ấy, khuấy đều và để lắng. Chất gôm trong bột hạt chùm ngây có tác dụng như một chất điện phân đa cực sẽ thu hút vi trùng và bụi bẩn rồi lắng đọng xuống đáy. Mặt khác các chất có hoạt tính kháng sinh nói trên cũng tiêu diệt vi trùng và nấm mốc trong nước.
                                                                                                                                                                                    Kết quả cho thấy rằng với bột từ hạt chùm ngây làm giảm ô nhiễm nguồn nước và giảm số lượng vi khuẩn sau khi sử lý. Cách này được áp dụng ở Ấn Độ và Châu Phi để lọc nước sông, nước ao và nước giếng để dùng trong sinh hoạt và ăn uống.
                                                                                                                                                                                    Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).
                                                                                                                                                                                    Tuy nhiên, những chất bổ dưỡng có trong hột Chùm ngây cũng có thể là nguồn thức ăn cho một số vi sinh vật phát triển sau lắng lọc! Do đó theo kinh nghiệm ở Việt Nam nên dùng phèn chua để làm trong nước, sau khi lắng cặn cho nước vào túi nylon và phơi nắng trong 1 ngày thì có nước sạch để dùng, cách này tiện lợi hơn.

                                                                                                                                                                                    Một số bài thuốc từ cây chùm ngây

                                                                                                                                                                                    1-Trị u xơ tiền liệt tuyến: Dùng 100g rễ Chùm ngây tươi và 80g lá Trinh nữ hoàng cung tươi (hoặc dùng rễ Chùm ngây khô 30g và lá trinh nữ hoàng cung khô 20g). Đem nấu với 2 lít nước, nấu còn lại nửa lít thuốc. Uống ấm 3 lần trong ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức -ĐH Y Dược, TP.HCM).
                                                                                                                                                                                    2-Trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường huyết, bảo vệ gan: Mỗi ngày dùng 150g lá Chùm ngây non rửa sạch, giã nát, thêm 300ml nước sạch vắt lấy nước cốt (hoặc dùng máy xay sinh tố), thêm 2 muỗng canh mật ong trộn đều, chia uống 3 lần dùng trong ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).
                                                                                                                                                                                    3-Trị tăng cholesterol, tăng lipid máu, tăng triglycerid, hoặc làm giảm acid uric, ngăn ngừa sỏi oxalate: Mỗi ngày dùng 100gr rễ chùm ngây tươi (hoặc 30gr khô) rửa sạch, nấu với 1 lít nước, nấu sôi 15 phút, để uống cả ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).
                                                                                                                                                                                    4-Công dụng ngừa thai: Đây là loại cây được đồng bào người Raglay dùng làm thuốc ngừa thai - cứ 5 ngày thì dùng 2 nắm rễ cây chùm ngây còn tươi (150g) rửa sạch băm nhỏ nấu với 2 lít nước, nấu còn nửa lít thuốc, chia uống 2 lần trong ngày. Phụ nữ Raglay trong tuổi sinh đẻ nếu uống nước sắc rễ chùm ngây thì sẽ không có thai. Tuy nhiên, cần lưu ý, phụ nữ đang có thai thì không được dùng cây chùm ngây. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).
                                                                                                                                                                                    5-Chùm ngây dùng để lọc nước: Lấy 2 trái chùm ngây tươi đã có hột già, lấy hột giã nát, trộn đều 5 phút với 3 lít nước đục, để lắng 2 giờ thì có nước trong dùng được. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).

                                                                                                                                                                                    Trồng cây chùm ngây

                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây hiện được trồng trên 80 quốc gia trên thế giới, những quốc gia tiên tiến đã sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang phát triển sử dụng chùm ngây như loài cây diệu kỳ vừa là loài rau sạch giàu dinh dưỡng kết hợp chữa những bịnh hiểm nghèo, bệnh thông thường và thực phẩm dinh dưỡng.
                                                                                                                                                                                    Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics. Cây Chùm Ngây cung cấp một hỗn hợp pha trộn nhiều hợp chất như zeatin, quercetin, beta-sitosterol caffeoylquinic acid và kaempferol, rất hiếm gặp tại các loài cây khác. 
                                                                                                                                                                                    -Ấn Độ là nước trồng cây chùm ngây lớn nhất thế giới với diện tích đến 38.000 ha. Ngoài việc dùng lá làm rau và thức ăn gia súc và làm thuốc thảo mộc dùng trong dân gian, hàng năm cón sản xuất từ 1,1 đến 1,3 triệu tấn quả khô để dùng trong công nghiệp và xuất khẩu.
                                                                                                                                                                                    Những nơi trồng cây chùm ngây nhiều nhất ở Ấn Độ là Tiểu bang Andhra  Pradesh (15.665 ha), Tiểu bang Karnataka (10.280 ha), Tiểu bang Tamil Nadu (7.408 ha) và ở các Tiểu bang khác (4.613 ha).
                                                                                                                                                                                    -Từ Ấn Độ, cây chùm ngây được giới thiệu và phát triển ở Sri Lanka.
                                                                                                                                                                                    -Ở Thái Lan cây chùm ngây được rồng phổ biến để làm hàng rào, lá dùng để làm rau và các bộ phận của cây được dùng làm thuốc.
                                                                                                                                                                                    -Ở Mỹ cây chùm ngây được du nhập và trồng ở các bang phía Nam có khí hậu nóng và đang được trồng thương mại ở Hawaii.
                                                                                                                                                                                    -Ở Đài Loan cây chùm ngây được Tổ chức FAO giới thiệu về Trung tâm Rau quà Á Châu và giao nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển nhằm chống suy dinh dưỡng và xóa đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển.
                                                                                                                                                                                    -Ở Philippines, trong năm 2007, Thượng nghị sĩ Loren Legarda của Philippines vận động cho việc phổ biến trồng cây chùm ngây. Bà đã yêu cầu Chính phủ đầu tư khuyến khích nhân dân trồng và chế biến cây chùm ngây. Trong đó có món lá cây chùm ngây polvoron (một loại sữa bột ăn nhẹ), nhiên liệu sinh học , và tinh dầu.
                                                                                                                                                                                    Cây chùm ngây được nhân giống bằng cách trồng cây cao đến  1-2 m cắt cành lá, thời gian trồng tốt nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Sau khi trồng 6-8 tháng cây bắt đầu ra nụ ra nụ hoa. Cũng có thể gieo bằng hạt với mật độ vườn ươm khoảng 20-25 cm/cây. Cây dể trồng, chịu dựng được khô hạn, có thể gieo hạt quanh năm. Tố nhất nên gieo hạt vào đầu mùa mưa và trồng cây vào đầu mùa mưa năm sau.
                                                                                                                                                                                    -Hiện nay cây chùm ngây cũng được trồng rộng rãi ở Châu Phi, Campuchia, Nepal, Indonesia, Malaysia, Mexico, Trung và Nam Mỹ, và Sri Lanka.
                                                                                                                                                                                    -Ở Việt Nam cây chùm ngây có trong tự nhiên từ lâu đời. Tại vùng núi ở Tịnh Biên, Tri Tôn (An Giang) có nhà chỉ trồng nó làm hàng rào. Nay bà con mới biết tới các công dụng của nó. Huyện đã xây dựng một dự án để bảo tồn và phát triển cây chùm ngây. Họ dành tới 3.000m2 để làm vườn nhân giống.
                                                                                                                                                                                    Chùm ngây là loại cây thân gỗ. Nó có thể cao tới 5-6m, cây rất dễ trồng, dễ sống. Nó không kén đất, ít tốn phân. Ta có thể trồng quanh hàng rào, trồng ở những bãi đất trống, trồng dọc đường đi... Trồng khoảng 4-5 tháng là bắt đầu có thể thu lá. Lá bán rất đắt, 12.000 đồng/mớ.
                                                                                                                                                                                    Hầu như chưa thấy loài sâu bọ nào phá hoại chúng. Nó chịu hạn rất giỏi. Vì vậy, có thể trồng nó trên cả các gò, đồi, các vùng đất xấu. Chỉ có điều, nó chịu úng kém.
                                                                                                                                                                                    Hiện nay cây chùm ngây được trồng rải rác trong khắp cả nước và đang được Bộ Nông nghiệp khuyến khích trồng như một loại rau sạch giàu dinh dưỡng.
                                                                                                                                                                                    Ở phía Bắc đã có nơi tiến hành trồng chùm ngây. Công ty Intracom là một đơn vị xây dựng nhưng cũng mở thêm hướng sản xuất nông nghiệp. Họ trồng rau sạch, trong đó có cây chùm ngây. Rau bán rất chạy.
                                                                                                                                                                                    Vậy sao bà con ta không trồng chùm ngây? Hãy liên hệ ngay với các cơ sở để có giống và có sự trợ giúp về kỹ thuật.
                                                                                                                                                                                    Miền Bắc liên hệ: 04.85856168.
                                                                                                                                                                                    Miền Nam liên hệ: 01669282986, 0935146069, 0987198591.       
                                                                                                                                                                                    Nguồn: Chuyên gia Nguyễn Lân Hùng (Theo báo Dân Việt).

                                                                                                                                                                                    Trồng cây chùm ngây ở Tây Ninh

                                                                                                                                                                                    Kết luận

                                                                                                                                                                                    Cây Chùm Ngây vừa là nguồn dược liệu vừa là nguồn thực phẩm phong phú và quí hiếm. Lá, hoa, trái, thân , vỏ, rễ của cây chứa chất khoáng , chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều họp chất khác. Ngoài khả năng thanh lọc nước và giá trị dinh dưỡng cao, cây moringa còn là nguồn dược thảo quan trọng trong việc ngăn ngừa và điều trị rất nhiều căn bệnh , các bộ phận của cây có nhũng hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống ung bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxy hóa, tri tiểu đường , bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm… cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong y học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á.
                                                                                                                                                                                    Xin trích lời của Nguyễn Thành Hà-Cty Văn Kiếm Nhân
                                                                                                                                                                                    “Rõ ràng cây chùm ngây, không chỉ là giải pháp độ sinh cho thế giới thứ ba như tổ chức lương thực thế giới (Food and Argriculture Organization) đề quyết mà còn là giải pháp ưu việt cho Việt nam chúng ta, vấn đề là làm thế nào để mọi người dân Việt Nam biết được giá trị của nó, để người nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, để cây chùm ngây trở thành thực đơn hàng ngày trong mỗi bữa ăn , để những nhà sản xuất, chế biến dược phẩm của chúng ta không chỉ có mỗi một lựa chọn là mua nguyên liệu nước ngoài về dập thành viên rồi bán, và làm thế nào để phổ biến những sản phẩm của cây chùm ngây rộng khắp? tôi nghĩ, trước tiên , không ai khác hơn là các cơ quan truyền thông, báo đài, các nhà nghiên cứu, viện dinh dưỡng , cơ quan y tế và lương thực, cơ quan chức năng chuyên nghành, nhà sản xuất kinh doanh, dĩ nhiên không thể thiếu vai trò của các trường học…. 
                                                                                                                                                                                    Sẽ hết sức vô cảm, nếu chúng ta tiếp tục để những bà mẹ ốm yếu thiếu sữa, những trẻ em lớn lên trong còi cọc, những bệnh nhân, những người nghèo lây lất, bên cạnh cây chùm ngây, nguồn dược liệu và dinh dưỡng phong phú đã có từ lâu trên nhiều vùng của đất nước chúng ta”.
                                                                                                                                                                                  4. Cây cà pháo
                                                                                                                                                                                  5. Cây keo dậu (bình linh)
                                                                                                                                                                                    Mô hình cây keo dậu

                                                                                                                                                                                    1-Tên gọi và danh pháp khoa học

                                                                                                                                                                                    -Tên thường gọi: Keo dậu (Miển Bắc), Táo nhơn (Miền Trung), Bình linh (Miền Nam)
                                                                                                                                                                                    -Tên gọi khác: Keo giậu, keo giun, bọ chét, bọ chít…
                                                                                                                                                                                    -Tên tiếng Anh: White Leadtree, White Popinac, Jumbay.
                                                                                                                                                                                    -Tên khoa họcLeucaena leucocephala ( Lâm. ) de Wit 
                                                                                                                                                                                    -Tên đồng nghĩa:
                                                                                                                                                                                    Leucaena glauca (L.Benth.
                                                                                                                                                                                    Mimosa glauca L.
                                                                                                                                                                                    Acacia glauca Willd.

                                                                                                                                                                                    2-Phân loại khoa học (Scientific classification)


                                                                                                                                                                                    Bộ (ordo)Đậu (Fabales)
                                                                                                                                                                                    Họ (familia)Đậu (Fabaceae)
                                                                                                                                                                                    Phân họ (subfamilia)Trinh nữ (Mimosoideae)
                                                                                                                                                                                    Tông (tribus)Trinh nữ (Mimoseae)
                                                                                                                                                                                    Chi (genus)Keo dậu (Leucaena)
                                                                                                                                                                                    Loài (species)Leucaena leucocephala
                                                                                                                                                                                    Phân loài (Subspecies)
                                                                                                                                                                                    L. l. subsp. leucocephala

                                                                                                                                                                                    3- Nguồn gốc và phân bố

                                                                                                                                                                                    Chi Keo dậu (Leucaena) thuộc phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) trong Họ Đậu (Fabaceae). Chi này có nguồn gốc từ ở nam Bắc Mỹ và Trung Mỹ, phân bố từ Texas (Hoa Kỳ) tới Peru với 24 loài cây thân gỗ và cây bụi.
                                                                                                                                                                                    Sau khi người Châu Âu phát hiện ra Châu Mỹ, các loài cây trong Chi Keo dậu được giới thiệu rộng rải sang các Châu lục khác và hiện nay chúng được xếp vào nhóm 100 loài thực vật xâm lấn mạnh mẻ nhất.
                                                                                                                                                                                    Cây keo dậu (Leucaena leucocephalacó nguồn gốc từ miền nam Mexico và miền bắc Trung Mỹ (Belize và Guatemala), và hiện nay nó phân bố khắp các vùng nhiệt đới trên thế giới.
                                                                                                                                                                                    Trong tiếng Anh loài cây này được gọi phổ biến là White Leadtree, White Popinac, Jumbay. Nguồn gốc tên gọi của loài cây này từ tiếng Hy Lạp “λευκό”, có nghĩa là "trắng", và “κέφαλος”, có nghĩa là "đầu", đề cập đến hoa của nó (đầu trắng).
                                                                                                                                                                                    Với nhiều mục đích sử dụng, cây keo dậu được các đế quốc Châu Âu ngày xưa giới thiệu sang các thuộc địa của họ ở Châu Phi, châu Á và Châu Úc và hiện nay keo dậu được xếp vào loài cây xâm lấn toàn cầu.
                                                                                                                                                                                    Ở Đông Nam Á, cây keo dậu do người Tây Ban Nha du nhập vào Philippine từ giữa thế kỷ thứ 19, đến cuối thế kỷ 19 nó lan rộng khắp Đông Nam Á và Austrlia.
                                                                                                                                                                                    Trong tiếng Việt, cây được đặt tên là Keo dậu vì nó được trồng làm hàng rào (dậu) được dùng phổ biến ở Miền Bắc, cây Táo nhơn (Miền Trung), cây Bình linh (Miền Nam). Một số địa phương còn có tên gọi khác như: Keo giậu, keo giun, bọ chét, bọ chít…
                                                                                                                                                                                    Cây Keo giậu (Leucaena esculentaphát triển ở hầu hết các vùng sinh thái của Việt Nam, nhưng nhiều ở nam Trung Bộ, như ở Khánh Hòa. Keo giậu sinh trưởng tốt trên đất thoát nước, ít chua, có thể thích ứng với đất mặn vừa ven biển. Keo giậu chịu khô hạn rất tốt nhưng không chịu úng đặc biệt là khi còn non.

                                                                                                                                                                                    4-Mô tả

                                                                                                                                                                                    Cây keo dậu Leucaena leucocephala là một loài cây gỗ nhỏ, loài cây này tại Việt Nam thường được trồng làm hàng rào nên người ta thường gọi là keo dậu.

                                                                                                                                                                                    Cây keo dậu
                                                                                                                                                                                    -Thân: Cây gỗ nhỏ, cao tới 5m, không có gai, vỏ thân màu xám nhạt, tán lá hẹp.
                                                                                                                                                                                    -: Lá kép lông chim hai lần; cuống chung dài 12-20mm; lá lông chim 4-8 đôi; lá chét 12-18 đôi gần như không cuống và hình lưỡi liềm, dài 10-15mm, rộng 3-4mm. Lá nhẵn, trên cuống lá cấp 1 có các tuyến hình chậu (một đặc điểm điển hình thuộc phân họ trinh nữ). Lá non mềm, giàu đạm nên dùng làm rau cho người và thức ăn gia súc.
                                                                                                                                                                                    -Hoa: Cụm hoa hình đầu ở nách lá, gồm nhiều hoa màu trắng. Mùa hoa tháng 4-6; quả tháng 7-9.

                                                                                                                                                                                    Hoa cây keo dậu
                                                                                                                                                                                    -Quả:Quả tạo thành chùm. Quả đậu dẹt màu xanh lục khi còn non, màu nâu nhạt khi đã già, dài 13-14cm, rộng 15mm, đầu quả có mỏ nhọn. Quả còn non ăn được như các loại đậu ăn quả

                                                                                                                                                                                    Quả non cây keo dậu

                                                                                                                                                                                    Quả già cây keo dậu
                                                                                                                                                                                    -Hạt: Mỗi quả có 15-20 hạt, hạt dẹt, lúc non màu lục; khi già màu nâu nhạt, cứng, nhẵn. Hạt khi còn xanh có thể ăn được và hạt chín thường dùng làm thuốc trục giun, bột dinh dưỡng cho người và gia súc.

                                                                                                                                                                                    Hạt cây keo dậu
                                                                                                                                                                                    Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước cây keo dậu được xem là loài cây thần kỳ dược khuyến cáo trồng làm rau cho người và thức ăn ga súc, nhưng từ cuối thế kỷ 20 khi phát hiện ra độc tố Mimosine trong các loài cây trong Chi Trinh nữ (Mimoseae) nên giá trị của loài cây này không còn được sủng ái và được xết vào danh sách 100 loài thực vật xâm hại nguy hiểm nhất trên thế giới. (Theo Nhóm chuyên gia của Ủy ban Sự bảo tồn Loài của IUCN). 

                                                                                                                                                                                    5-Thành phần hóa học

                                                                                                                                                                                    Trong lá cây Keo dậu Leucaena leucocephala có hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là protein. Lá chứa tanin, quercitrin và là nguyên liệu cho protein và caroten. Lượng protein trong lá keo dậu biến động từ 270 - 280 g/kg, tỷ lệ xơ thấp (155 g/kg) và hàm lượng caroten khá cao (200 mg).  
                                                                                                                                                                                    Tuy nhiên, keo dậu có hạn chế là chứa một lượng nhỏ độc tố mimosine (thường tập trung trong các phần non của cây như lá, chồi non). Vì vậy khi sử dụng keo dậu làm thực phẩm cho người và gia súc cần có biện pháp làm giảm hàm lượng mimosine (như xử lý nhiệt trên 700C; nhúng trong nước qua đêm; ủ chua…) và khống chế lượng keo dậu chỉ chiếm < 5% khẩu phần đối với con người.
                                                                                                                                                                                    Bột lá keo dậu là thức ăn bổ sung caroten, vitamin, khoáng chất cho gia cầm và gia súc non. Trong hạt chứa dầu béo, trong đó có các acid béo (palmitic, stearic, behenic, lignoceric, oleic và linoleic); hạt còn chứa chất nhầy gồm mannan, galactan và xylan.
                                                                                                                                                                                    Lưu ý độc tố Mimosine!
                                                                                                                                                                                    Độc tố Mimosine hay leucenol vừa là một axit amin vừa là một alkaloid thực vật xuất hiện phổ biến trong các loài cây thuộc Chi Keo dậu (Leucaena). Mimosine có công thức phân tử là C8H10N2O4 và công thức khai triển là:

                                                                                                                                                                                    Mimosine
                                                                                                                                                                                    Tên hóa học theo danh pháp quốc tế IUPAC là (2S)-2-Amino-3-(3-hydroxy-4-oxopyridin-1-yl) propanoic acid. Có khối lượng phân tử là 198.18 g mol−1. Chất này hòa tan mạnh trong nước nên trước khi ăn nên ngâm nước khoảng 24 giờ, tránh ăn tươi hoặc xào hay nấu canh mà chỉ nên luộc và bỏ nước. Bản thân chất Mimosine độc không đáng kể nhưng metyl este của nó tạo thành một dihydrochloride, có công thức C 7 H 9 O 2 N 2 (COOMe) • 2 HCl • ½ H2O là chất gây độc có thể làm rụng tóc, rụng lông vả sẩy thai, vô sinh.
                                                                                                                                                                                    Hiện tượng nhiểm độc do ăn phải hàm lượng cao chất Mimosine đã được phát hiện trên người và gia súc ở ÚcPapua New Guinea , châu Phi và Hoa Kỳ.
                                                                                                                                                                                    Cơ chế gây độc của Mimosine được xác định do dẫn xuất dihydrochloride của nó làm ức chế quá trình sao chép DNA trong giai đoạn cuối của quá trình sinh sản tế bào mới.
                                                                                                                                                                                    Ở Miến Điện đã ghi nhận dê ăn 50% khẩu phần từ lá các cây thuộc Keo dậu (Leucaena) đã bị trụi lông!
                                                                                                                                                                                    Tốt nhất đối với con người không nên ăn lá, đọt non và hạt của loài cây này!

                                                                                                                                                                                    6-Công dụng

                                                                                                                                                                                    6-1-Lá, đọt non và quả non cây keo dậu được dùng làm rau
                                                                                                                                                                                    +Ở Việt Nam
                                                                                                                                                                                    -Lá, đọt non của cây keo dậu mềm, được dùng làm rau ăn. Có thể dùng làm rau sống, luộc, xào, nấu canh rau hay canh chua. Vị của nó giống như rau nhút nên được người dân Nam Bộ dùng để nấu canh chua thay cho rau nhút.
                                                                                                                                                                                    -Quả non của cây keo dậu giống như quả đậu ván, dùng để luộc, xào, nấu canh như đậu que, đậu bún…
                                                                                                                                                                                    +Ở Nước ngoài
                                                                                                                                                                                    -Ở Indonesia các quả non của cây keo dậu được ăn kèm với rau xà lách Java với nước sốt đậu phộng cay và cá cay bọc trong đu đủ hoặc lá khoai môn.
                                                                                                                                                                                    -Nhiều nơi ở Châu Phi và Nam Mỹ đã dùng lá no và quả non của cây keo dậu để làm rau.
                                                                                                                                                                                    Tuy nhiên các bộ phận của câu keo dậu đều có chứa độc tố mimosine ở hàm lượng thấp, tốt nhất không nên dùng các bộ phận của cây keo dậu làm thức ăn.
                                                                                                                                                                                    6-2-Lá, đọt non và quả non cây keo dậu được dùng làm thức ăn gia súc
                                                                                                                                                                                    Keo dậu là cây tiên phong trên vùng đất khô hạn, nó có thể phát triển trên đất khô cằn và đồi trọc nên được khuyến cáo trồng làm thức ăn gia súc và gia cầm.
                                                                                                                                                                                    Bột lá keo dậu khô là thức ăn bổ sung caroten, vitamin, khoáng chất cho gia cầm và gia súc non. Lượng protein trong lá keo dậu khá cao (270 - 280 g/kg) và hàm lượng caroten khá cao (200 mg).
                                                                                                                                                                                    Tuy nhiên trong lá và quả cây keo dậu có chứa độc tố mimosin nên chỉ sử dụng dưới 25% trong khẩu phần cho gia súc nhai lại, dưới 10% đối với lợn và dưới 5% đối với gia cầm.
                                                                                                                                                                                    6-3-Cây keo dậu dùng để phủ đồi trọc, tạo sinh khối và cải tạo đất
                                                                                                                                                                                    Keo dậu là cây tiên phong trên vùng đất khô hạn, nó có thể phát triển trên đất khô cằn và đồi trọc nên được khuyến cáo trồng để cải thiện môi trường vùng cao bị sa mạc hóa.
                                                                                                                                                                                    Indonesia là nước tiên phong trong lĩnh vực này. Các kết quả nghiên cứu ở Indonesia cho biết:
                                                                                                                                                                                    -Hiện nay nó được coi như là một nguồn cung cấp than củi và năng lượng (tương đương 1 triệu thùng dầu hàng năm từ diện tích 120 km²)Nó được coi là một cỗ máy sản xuất sinh khối, do sản lượng lá của nó tương đương với khối lượng khô khoảng 2-20 tấn/ha trong một năm và củi khoảng 30 - 40 m³/ha trong một năm, với sản lượng có thể gấp đôi trong những khu vực có khí hậu thích hợp.
                                                                                                                                                                                    -Keo dậu là loài cây rất hiệu quả trong việc cố định đạm, với khối lượng lớn hơn 500 kg/ha mỗi năm.
                                                                                                                                                                                    -Sau khi trồng keo dậu đất được phục hồi, trồng cây đại mộc tái tạo rừng rất hiệu quả.
                                                                                                                                                                                    Ở Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Văn QuangViện Chăn nuôi Quốc Gia, khuyến cáo trồng cây keo dậu để phủ kín đồi trọc ở các tỉnh Miền Trung, lá và quả cây keo dậu vừa bổ sung nguồn thức ăn cho gia súc (bò, dê, cừu) vừa cải thiện đất bị sa mạc hóa sau đó phục hồi lại rừng đồi bằng cây đại mộc.
                                                                                                                                                                                    Theo Tiến sĩ Nguyễn văn Quang, do khả năng sinh thái có thể tái sinh hạt rất tốt nên người ta thường sử dụng keo dậu làm 1 loài cây tiên phong phục hồi rừng. Hạt keo dậu sẽ được gieo vãi trên đất mất tính chất đất rừng, keo dậu nảy mầm và sẽ cải tạo dần tính chất đất ở đây, tạo hoàn cảnh cho các loài cây gỗ khác có thể sinh trưởng.
                                                                                                                                                                                    Ông đã đưa ra quy trình trồng keo dậu đại trà rất thành công.
                                                                                                                                                                                    Xem chi tiết tại đây:
                                                                                                                                                                                    Quy trình kỹ thuật trồng Keo dậu (Leucaena Leucocephala)

                                                                                                                                                                                    Ươm cây giống keo dậu

                                                                                                                                                                                    Trồng cây keo dậu ở Miền Trung
                                                                                                                                                                                    6-4-Dùng các bộ phận cây keo dậu để làm thuốc
                                                                                                                                                                                    +Theo Đông y:
                                                                                                                                                                                    -Tính vị, tác dụng: Hạt Keo giậu sao vàng thì có vị hơi đắng nhạt, mùi thơm bùi, để sống thì mát, tính bình; có tác dụng trị giun.
                                                                                                                                                                                    -Công dụng: Để trị giun, thường dùng hạt tươi ăn hoặc dùng hạt khô rang lên cho nở, tán bột uống, hoặc thêm đường làm thành bánh. Ngày dùng 10-15g (trẻ em) hoặc 25-50g (người lớn) uống vào sáng sớm lúc đói, liền trong 3-5 buổi sáng. Không cần dùng thuốc tẩy. Có thể phối hợp với các loại hạt khác như Sử quân tử thì hiệu quả càng cao.
                                                                                                                                                                                    Ở Ấn độ, người ta còn dùng vỏ cây làm thuốc chữa bệnh đường tiêu hoá.
                                                                                                                                                                                    Chú ý!: Ăn nhiều hạt keo dậu có thể bị rụng tóc.
                                                                                                                                                                                    +Theo Tây y:
                                                                                                                                                                                    Cảnh báo độc tố Mimosine trong cây keo dậu có tác hại đến sức khỏe, có thể gây bệnh rụng tóc, sẩy thai, vô sinh khi ăn nhiều.
                                                                                                                                                                                    Trong hạt cây keo dậu chứa nhiều kim loại nặng Selenium được tích tụ lại do quá trình hấp thụ nguyên tố này trong đất trồng. Chất này có hại cho sức khỏe con người.
                                                                                                                                                                                    Tây y cũng đã lưu ý đến tác dụng ngừa thai của vỏ rễ và vỏ thân cây keo dậu khi thí nghiệm trên chuột nhắt trắng.
                                                                                                                                                                                    Tóm lại Tây Y khuyên không nên dùng các bộ phận của cây keo dậu là thực phẩm cho người và hạn chế tỷ lệ khẩu phần trong thức ăn gia súc.
                                                                                                                                                                                  6. Cây nhàu
                                                                                                                                                                                  7. Cây nhàu
                                                                                                                                                                                    -Tên gọi khác: Nhàu rừng, Cây ngao,
                                                                                                                                                                                    -Tên tiếng Anh: Indian Mulberry, East Indian Mulberry, Awltree, Great morinda, Beach mulberry, cheese fruit.
                                                                                                                                                                                    -Tên khoa học: Morinda citrifolia L.

                                                                                                                                                                                    Phân loại khoa học


                                                                                                                                                                                    Bộ (ordo):Long đởm (Gentianales)
                                                                                                                                                                                    Họ (familia):Cà phê/Thiến thảo (Rubiaceae)
                                                                                                                                                                                    Chi (genus):Nhàu (Morinda)
                                                                                                                                                                                    Loài (species):Morinda citrifolia L.

                                                                                                                                                                                    Phân bố

                                                                                                                                                                                    Cây nhàu có nguồn gốc vùng nhiệt đới thuộc Châu Á và Châu Úc. Loài cây này phân bố nhiều ở vùng Đông Nam Á,Trung Quốc và Ấn Độ.
                                                                                                                                                                                    Ở Việt Nam, cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, cây thường dựa vào mép nước. Ở Việt Nam cây nhàu có nhiều ở Miền Nam, ngoài ra còn có ở các tỉnh Miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và vài nơi thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
                                                                                                                                                                                    Cây mọc hoang và được trồng nhiều ở các tỉnh phía Nam, lá được dùng làm rau phổ biến ở nông thôn.

                                                                                                                                                                                    Mô tả

                                                                                                                                                                                    Cây gỗ nhỏ, mọc đứng.
                                                                                                                                                                                    -Thân: Cây cao 4-8 m. Thân, cành non mập, có 4 cạnh rõ, màu lục hoặc nâu nhạt.
                                                                                                                                                                                    Cành non màu xanh, tiết diện vuông, có rãnh, nhẵn; cành già tiết diện tròn, màu nâu xám.
                                                                                                                                                                                    -Lá: Lá mọc đối, hình bầu dục dài 12 -30 cm, rộng 6 -15 cm, mép uốn luợn, lá màu xanh bóng đậm ở mặt trên, mặt dưới nhạt hơn. Bìa lá hơi dợn sóng. Gân lá hình lông chim, nổi rõ ở mặt dưới, 6-7 cặp gân phụ. Cuống lá 1-2 cm. Lá kèm nằm giữa 2 lá mọc đối, hình xoan, cao 1-1,5 cm, màu xanh nhạt.
                                                                                                                                                                                    -Hoa: Cụm hoa là đầu hình tròn hay hơi bầu dục, ở ngoài nách lá. Trục cụm hoa hình trụ, màu xanh, nhẵn, dài 1-2 cm. Đáy cụm hoa có 3 phiến hẹp, dài 5-8 mm. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 5. Đài hoa là một gờ tròn. Cánh hoa 5, ống tràng hình phễu, màu xanh nhạt, cao 7-12 mm; bên trong có nhiều lông trắng; 5 thùy dài khoảng 5-8 mm, màu trắng, hình bầu dục đầu nhọn, đỉnh có phụ bộ là một mấu nhỏ cong vào trong. Khi hoa nở các thùy cong xuống phía dưới; tiền khai van. Nhị 5, bằng nhau, rời, gắn ở phần loe của ống tràng xen kẽ với các cánh hoa, chỉ nhị rất ngắn. Bao phấn hình đầu tên, màu vàng nhạt, dài khoảng 4 mm; 2 ô, mở dọc, hướng trong, đính gốc. Hạt phấn rời, hình hình cầu, màu vàng nhạt. Lá noãn 2, ở vị trí trước sau, bầu dưới, 2 ô, mỗi ô 1 noãn, đính trung trụ. Vòi và đầu nhụy. Vòi nhụy dạng sợi màu xanh nhạt, dài 5 mm; 2 đầu nhụy dạng phiến mỏng, dài 3 mm, màu xanh. Đĩa mật dày, hình khoen, màu vàng.
                                                                                                                                                                                    Cây ra hoa quanh năm, tập trung nhiều nhất vào khoảng tháng 11-2, cho quả vào khoảng tháng 3-5.
                                                                                                                                                                                    -Quả: Quả hạch kép do bầu noãn và một phần lá đài của các hoa trên cụm hoa dính nhau tạo thành. Quả còn non màu xanh nhạt, dài 5-7 cm, rộng 3-4 cm. Quả già màu ngà vàng, nhẵn bóng, mùi khai, trên quả còn vết tích các đĩa mật. Quả thịt, hình trứng gồm nhiều quả hạch dính vào nhau, khi chín màu vàng, chứa cơm mềm, ăn được.
                                                                                                                                                                                    -Hạt: Hạt nhiều, hình bầu dục, một đầu nhọn, màu nâu đen.

                                                                                                                                                                                    Hoa và quả của cây nhàu

                                                                                                                                                                                    Thành phần hóa học

                                                                                                                                                                                    Vỏ rễ chứa morindon, morindin, morindadiol, soranjidiol, axít rubichloric, alizarin a-methyl ete và rubiadin 1-methyl ete. Ngoài ra, rễ còn chứa Acid Rubicloric, Alizarin α-Methyl Ether, Rubiadin-1 Methyl Ether, Morindadiol và Soranjudiol và Selen.
                                                                                                                                                                                    Rễ chứa moridin là một anthraquinoic kết tinh thành tinh thể hình kim, màu vàng cam, tan trong nước sôi và các chất kiềm, ít tan trong nước lạnh, không tan trong ether. Ngoài ra, còn có 1-metoxyrubiazin, moridon, alizarin và 1-oxy-2,3-dimetoxy anthraquinon. Lá cũng có moridin.
                                                                                                                                                                                    Quả chứa ít tinh dầu, trong đó có Acid Hexoic, Acid Octoic, một ít Parafin và các Ester và các chất Lignans, polysaccharides, flavonoids, iridoids, acid béo, scopoletin, catechin, beta-sitosterol, damnacanthal, alkaloids.
                                                                                                                                                                                    Năm 1982, tác giả Đàm Trung Bảo (Đại học Dược Hà Nội) cho biết trong Nhàu có nhiều selenium.

                                                                                                                                                                                    Công dụng của cây nhàu

                                                                                                                                                                                                a-Lá nhàu dùng làm rau

                                                                                                                                                                                    Do có vị đắng nên lá nhau không dược dùng để ăn sống.
                                                                                                                                                                                    Lá nhàu non dùng làm rau được nấu chín ở các dạng:
                                                                                                                                                                                    -Lá nhàu luộc: Để giảm bớt vị đắng.
                                                                                                                                                                                    -Lá nhàu xào: Xào với các loại thịt ếch, nhái, trâu, bò…
                                                                                                                                                                                    -Lá nhàu chưng, hấp: Lá nhàu làm chất độn để hấp với thịt, cá. Đặc biệt để gói với thịt bầm và hấp với nước cốt dừa.

                                                                                                                                                                                    Lươn um lá nhàu

                                                                                                                                                                                                b- Quả nhàu ăn được

                                                                                                                                                                                    -Ăn trực tiếp: Quả nhàu chín có vị cay nồng, ăn được.
                                                                                                                                                                                    Trẻ con vùng quê Nam Bộ trước đây rất thích ăn quả nhàu chín (vì lúc đó kinh tế còn khó khăn) rất khó có điều kiện để mua trái cây như hiện nay. Quả nhàu có vị cay, nồng rất khó ăn, nhưng khi ăn được trở thành thói quen. Quả nhàu chín thường được ăn với muối hạt hoặc ăn không.

                                                                                                                                                                                    Quả nhàu sắp chín

                                                                                                                                                                                    Quả nhàu chín cây
                                                                                                                                                                                    c-Quả nhàu được dùng làm trà
                                                                                                                                                                                    Tại Việt Nam và một số nước ở vùng Đông Á như Trung Quốc, Nhất Bản, Hàn Quốc... đã dùng quả nhàu phơi hoặc sấy khô dùng làm trà để uống với mục đích vừa giải khát và vừ trị bệnh thay vì ăn quả nhàu hay uống nước sắc từ rể cây nhàu.
                                                                                                                                                                                    Một số doanh nghiệp cũng đã chế biến trà nhàu bán trên thị trường dành cho những ngường bệnh đau nhứt xương khớp và người cao tuổi.
                                                                                                                                                                                    Sản phẩm trà từ quả nhàu

                                                                                                                                                                                    d-Quả và rể nhàu được dùng để ngâm rựou
                                                                                                                                                                                    Trong dân gian Việt Nam, rể nhàu phơi khô, xắt lát, sao thủy thổ được dùng để ngâm rượu làm thuốc uống để chống mệt mỏi, đau nhứt xương khớp do lao động nặng.
                                                                                                                                                                                    Quả nhàu chín cũng được ngâm rượu để uống trong các bữa ăn để kích thích tiêu hóa.
                                                                                                                                                                                    Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây ở Việt Nam đã có nhiều sản phẩm rượu nhàu sản xuất bằng công nghiệp và được nhiều người ủng hộ.
                                                                                                                                                                                    Rượu nhàu chế biến công nghiệp
                                                                                                                                                                                    e- Các bộ phận cây nhàu dùng làm thuốc
                                                                                                                                                                                    +Theo Đông y
                                                                                                                                                                                    Tại Việt Nam, Nhàu rừng là một trong số 300 vị thuốc Nam được Lương y Nguyễn An Cư (1877-1949) một thầy thuốc nỗi tiếng của Nam Bộ trước Cách Mạng Tháng Tám khuyến khích sử dụng xen kẻ với thuốc Bắc để tiết kiệm cho người bệnh.
                                                                                                                                                                                    Nhàu rừng và Rễ Nhàu cũng là hai trong số 208 vị thuốc Nam được Lương y Việt Cúc ghi lại trong "Nam dược tính yếu lược" (1965). Đặc biệt từ năm 1952 bác sĩ Đặng văn Hồ, nguyên là giám đốc Bệnh viện Lao Ngô Quyền và các cộng sự của ông đã tiến hành hàng chục năm liền nghiên cứu tác dụng của rễ Nhàu trên các bệnh nhân. Công trình nầy sau đó đã được tổng kết và công bố vào năm 1973.
                                                                                                                                                                                    Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, nhà nghiên cứu nỗi tiếng về "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" cũng đã đề cặp đến cây Nhàu và xếp vị thuốc nầy vào danh mục những vị thuốc về huyết áp. Hiện nay nhiều xí nghiệp Dược trong nước cũng đã sản xuất thuốc viên và thuốc nước chiết xuất từ Nhàu.
                                                                                                                                                                                    Các bộ phận cây nhàu được dùng làm thuốc:
                                                                                                                                                                                    -Rể: Rễ, thu hái vào mùa đông. Rễ phơi khô. Rễ Nhàu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Nước sắc rễ Nhàu gây giãn mạch, hạ huyết áp, không gây ảnh hưởng rõ rệt đối với tần số co bóp của tim.
                                                                                                                                                                                    -Thân: Thân được thu hoạch tươi, xắt nhỏ, phơi khô, sao thủy thổ nấu nước làm thuốc.
                                                                                                                                                                                    -Lá: Lá thu hoạch quanh năm, tốt nhất vào mùa xuân. Lá và quả dùng tươi. Lá giã đắp chữa nhọt mủ. Lá sắc uống chữa sốt, lỵ, ỉa chảy.
                                                                                                                                                                                    -Quả: Quả thu hoạch vào mùa hạ. Quả làm dễ tiêu, nhuận tràng, chữa lỵ, băng huyết, bạch đới, ho, cảm, phù, đau dây thần kinh, đái đường.
                                                                                                                                                                                    +Theo Tây y
                                                                                                                                                                                    Do hiệu quả của nó, dần dần các nhà khoa học cũng đã quan tâm nghiên cứu. Năm 1848 Ông Anderson, một nhà khoa học người Pháp đã tách ra được từ rễ Nhàu chất Moridin có công thức tổng quát C28H30O15 và chất Moridon có công thức C15H10O5. Tiếp theo nhiều người khác như ông Perkin và Hummel năm 1894, ông Simonson năm 1920, ông Briggs năm 1948 cũng đã tiếp tục những công trình nầy.
                                                                                                                                                                                    Sau nầy khi phân tích dược tính của rễ Nhàu, giáo sư Caujolle, Giám đốc Trung Tâm khảo cứu Quốc gia Pháp về độc tính của các chất; G.S. Youngken thuộc Trường Đại Học Dược khoa Massachusette; G.S. Ikeda thuộc Trung Tâm Nghiên cứu vệ sinh quốc gia của Nhật Bản…đã thí nghiệm trên vật nuôi của phòng thí nghiệm và nhận thấy tinh chất rễ Nhàu (Extrait des racines de Morinda Citrifolia) có dược tính sau:
                                                                                                                                                                                    Tác dụng dược lý: một số kết luận y khoa đã cho thấy rõ các tác dụng của rễ nhàu như sau:
                                                                                                                                                                                    -Nhuận tràng nhẹ , lợi tiểu nhẹ và lâu dài.
                                                                                                                                                                                    -Làm êm dịu thần kinh trên thần kinh giao cảm
                                                                                                                                                                                    -Hạ huyết áp kéo dài.
                                                                                                                                                                                    -Rất ít độc và không làm nghiện.
                                                                                                                                                                                    Như vậy có thể nói cây Nhàu đã được nghiên cứu và sử dụng trong y học cổ truyền cũng như trong y học hiện đại từ lâu.
                                                                                                                                                                                    Y học ngày nay đã biết được rất rõ là khi thần kinh con người bị căng thẳng thì trương lực cơ bắp gia tăng, họat động nội tạng bị rối lọan, huyết áp tăng, lượng bạch cầu giảm…Trong điều kiện như vậy, tất cả các biện pháp hoặc các dược chất làm ổn định định được thần kinh - trong đó có rễ Nhàu hoặc trái Nhàu- đều có khả năng giúp cải thiện tình hình. Tuy nhiên đối với các bệnh có tổn thương thực thể hoặc các chứng viêm nhiểm, nhất thiết phải cần các vị thuốc hoặc các phương pháp đặc trị mà rễ Nhàu không thể thay thế được. Ngòai ra rễ Nhàu cũng không thể thay thế được các vị thuốc có tác dụng bổ khí hoặc bổ huyết, bổ âm hoặc bổ dương của y học cổ truyền.

                                                                                                                                                                                    Các bài thuốc từ cây nhàu

                                                                                                                                                                                    Theo lương y Lê Ngọc Vân, Chủ tịch Hội Đông y TP Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, dùng đúng cách thì giá trị chữa bệnh từ cây nhàu rất hiệu quả. Rễ nhàu có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, làm êm dịu thần kinh giao cảm, giảm đau nhức, hạ huyết áp; quả có tác dụng nhuận tràng và lợi tiểu; lá có tác dụng làm tăng lực, hạ sốt, điều hòa kinh nguyệt.
                                                                                                                                                                                    Sau đây là một số bài thuốc từ cây nhàu:
                                                                                                                                                                                    1-Chữa nhức đầu kinh niên, đau nữa đầu:
                                                                                                                                                                                    -Rễ Nhàu 24g -Muồng trâu 12g.
                                                                                                                                                                                    -Cối xay 12g -Rau má 12g.
                                                                                                                                                                                    -Củ gấu (sao, tẩm đồng tiện) 08g.
                                                                                                                                                                                    Đổ 500ml nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng. (theo http://ykhoa.net/yhoccotruyen/.htm).
                                                                                                                                                                                    2-Chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh, huyết áp cao:
                                                                                                                                                                                    -Rễ Nhàu 24g -Thảo quyết minh (sao thơm) 12g.
                                                                                                                                                                                    -Rau má 08g -Thổ phục linh 08g.
                                                                                                                                                                                    -Võ bưởi 06g.
                                                                                                                                                                                    -Gừng sống 03lát
                                                                                                                                                                                    Đổ 500ml nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng. (theo http://ykhoa.net/yhoccotruyen/.htm).
                                                                                                                                                                                    3-Chữa đau lưng do thận suy, phong hàn thấp xâm nhiểm:
                                                                                                                                                                                    -Rễ Nhàu 12g-Bù ngót 08g.
                                                                                                                                                                                    -Cối xay 08g -Dây gùi 08g.
                                                                                                                                                                                    -Ngó bần 08g -Đậu săn 08g.
                                                                                                                                                                                    -Tầm gửi cây dâu 08g -Rễ ngà voi 08g
                                                                                                                                                                                    -Ngủ trảo 12g.
                                                                                                                                                                                    Đổ 500ml nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng. (theo http://ykhoa.net/yhoccotruyen/.htm).
                                                                                                                                                                                    4-Chữa nhức mỏi, tê bại do phong thấp:
                                                                                                                                                                                    -Rễ Nhàu 40g -Nghệ xanh 20g.
                                                                                                                                                                                    -Nghệ vàng 20g -Trái ô-môi 10g
                                                                                                                                                                                    -Thiên niên kiện 20g -Võ quýt 20g
                                                                                                                                                                                    -Quế chi 20g -Đỗ trọng 30g.
                                                                                                                                                                                    -Vòi voi 40g -Chùm gửi cây dâu 20g
                                                                                                                                                                                    -Rượu nếp 02lít -Đường cát trắng 500g
                                                                                                                                                                                    Ngâm tất cả thuốc vào 2 lít rượu nếp trong 7 ngày. Lọc kỹ bỏ xác. Pha rượu đã lọc với 1 lít nước đường. Mỗi lần uống một ly nhỏ cở 30ml đến 40ml. Ngày uống 2 lần. (Toa thuốc nầy ngòai rượu còn có một số thuốc có tính nhiệt khác như quế chi, võ quýt, thiên niên kiện nên những người thể tạng nhiệt, hay táo bón, áp huyết cao hoặc đang có các chứng viêm nhiểm không nên dùng) (theo http://ykhoa.net/yhoccotruyen/.htm).
                                                                                                                                                                                    5-Chữa huyết áp cao: rễ nhàu 30-40g/ngày, sắc uống thay nước chè, sau 2 tuần là có kết quả, sau đó giảm bớt liều, uống liên tục 2,3 tháng. (theo www.thuocdongduoc.vn).
                                                                                                                                                                                    6-Nhức mỏi tay chân, đau lưng: quả nhàu non thái mỏng sao khô, 300g ngâm trong 2 lít rượu 30-40 độ sau 2 tuần, uống ngày 2 lần, lần 1 ly con 30-40ml. (theo www.thuocdongduoc.vn).
                                                                                                                                                                                    7-Chữa lỵ, tiêu chảy, cảm sốt: lá nhàu tươi 3-6 lá tươi rửa sạch nấu với 500ml nước còn 200ml chia 2 lần uống/ngày. Uống liên tục 2-5 ngày. (theo www.thuocdongduoc.vn).
                                                                                                                                                                                    8-Trị đau lưng, nhức mỏi chân tay: Rễ Nhàu hay quả Nhàu non, thái miếng, ngâm rượu uống dần, ngày uống một chén con. (theo kinh nghiệm dân gian Nam Bộ).
                                                                                                                                                                                    9-Nhân dân thường dùng lá làm rau nấu canh lươn ăn cho bổ. Trẻ em cũng thường lấy quả để ăn. (theo kinh nghiệm dân gian Nam Bộ).
                                                                                                                                                                                    Chú ý:
                                                                                                                                                                                    Một số cây chi Morinda cũng được gọi là cây Nhàu.
                                                                                                                                                                                    Nước ta đã sản xuất được một số chế phẩm  từ quả Nhàu dưới các dạng bào chế khác nhau. (theo www.thuocdongduoc.vn).
                                                                                                                                                                                    Cây quý mầu (bụp giấm)
                                                                                                                                                                                  8. Cây điều nhuộm
                                                                                                                                                                                  9. Cây đậu bắp
                                                                                                                                                                                  10. Rau đay
                                                                                                                                                                                                    1. Bồ công anh Trung Quốc
                                                                                                                                                                                                    2. Bồ công anh Việt Nam
                                                                                                                                                                                                    3. Cây Actiso
                                                                                                                                                                                                    4. Cây bìm bịp
                                                                                                                                                                                                    5. Cây Bạc hà (Dọc mùng)
                                                                                                                                                                                                    6. Cây cà tím
                                                                                                                                                                                                    7. Cây cải trời
                                                                                                                                                                                                    8. Cây củ dền
                                                                                                                                                                                                    9. Cây dứa
                                                                                                                                                                                                    10. Cây hành ta
                                                                                                                                                                                                    11. Cây hẹ
                                                                                                                                                                                                    12. Cây hẹ hoa
                                                                                                                                                                                                    13. Cây khoai môn (khoai sọ)
                                                                                                                                                                                                    14. Cây kiệu
                                                                                                                                                                                                    15. Cây Mã đề
                                                                                                                                                                                                    16. Cây mè
                                                                                                                                                                                                    17. Cây nghệ
                                                                                                                                                                                                    18. Cây rau dớn
                                                                                                                                                                                                    19. Cây rau má lá rau muống
                                                                                                                                                                                                    20. Cây rau nhái
                                                                                                                                                                                                    21. Cây su hào
                                                                                                                                                                                                    22. Cây sương sáo
                                                                                                                                                                                                    23. Cây sả
                                                                                                                                                                                                    24. Cây thù lù (các loại)
                                                                                                                                                                                                    25. Cây tía tô
                                                                                                                                                                                                    26. Cây tầm bóp (Thù lù cạnh)
                                                                                                                                                                                                    27. Cây tỏi
                                                                                                                                                                                                    28. Cây đậu nành
                                                                                                                                                                                                    29. Cây đậu phộng
                                                                                                                                                                                                    30. Cây đậu xanh
                                                                                                                                                                                                    31. Cây đậu đen
                                                                                                                                                                                                    32. Cây ớt
                                                                                                                                                                                                    33. Củ riềng
                                                                                                                                                                                                    34. Gừng
                                                                                                                                                                                                    35. Rau cần nước
                                                                                                                                                                                                    36. Rau dền
                                                                                                                                                                                                    37. Rau húng quế
                                                                                                                                                                                                    38. Rau lưỡi bò
                                                                                                                                                                                                    39. Rau tai voi
                                                                                                                                                                                                    40. Rau tai voi nhỏ
                                                                                                                                                                                                    41. Rau tàu bay

                                                                                                                                                                                                                                                                                  Không có nhận xét nào:

                                                                                                                                                                                                                                                                                  Đăng nhận xét