2. Rau sắng (Rau ngót núi, ngót rừng) Melientha Suavis Pierre. Họ Rau sắng Opiliaceae. Cây gỗ cao 4 – 8m, đường kính thân 25 – 30cm (Khác với các loài rau khác là cây thảo, bụi thấp trên dưới 1m). Rau là ngọn non bánh tẻ hoa, quả, hạt để ăn. Mọc phổ biến ở rừng, ven suối, ven núi đá ở nhiều tỉnh phía bắc Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hoà Bình, Sơn La, Hà Tây (Chùa Hương) miền Nam Việt Nam ở núi Đinh (Đồng Nai).
3. Rau chùm bao (Lạc tiên, Nhãn lồng) Pasiflora foetida L. Thuộc họ Lạc tiên Passifloraceae. Mọc hoang khắp rừng núi hoặc được trồng. Dùng ngọn non của dây lạc tiên làm rau ăn. Có tác dụng an thần gây ngủ. Chữa mất ngủ, ngủ hay mộng mị, hồi hộp tim. Còn dùng để lợi tiểu, tiêu viêm, giảm đau chữa ho, phù nề, viêm da, ngứa lở. Dùng uống trong và đắp ngoài. Khi chữa bệnh phối hợp thêm các vị khác theo yêu cầu cụ thể từng bệnh.
4. Rau tàu bay. Tên khoa học: Gynura crepidioides Benth. Họ Cúc Asteraceae. Có tên Tàu bay vì hoa bay khắp nơi khi có gió. Rau có phổ biến ở các bãi hoang nương rẫy, bìa rừng, khe suối. Còn mọc ở Lào, Campuchia, Trung Quốc. Ngọn và lá non dùng làm rau ăn sống cùng các lá khác khi ăn bánh xèo, vò nát trộn muối, luộc, xào, nấu canh hay muối dưa. Thành phần dinh dưỡng của rau tầu bay như sau % nước 91,1 protein 2,5, lipid 0,2 cellulose 1,6, dẫn xuất không protêin 3,7 khoáng toàn phần 0,9. Trong 1kg thức ăn có protêin tiêu hoá là 18g, calcium 0,8g, phospho 0,3g (Viện chăn nuôi 1979) còn tìm thấy 3,4mg% caroten, 10mg% vitamin C. Để làm thuốc chữa rắn rết cắn dùng lá tươi giã nhuyễn đắp lên vết bị cắn. Rau tàu bay được bộ đội ta thường nói đến trong các loại rau rừng được dùng làm rau ăn.
5. Rau mớp. Mớp gai, chóc gai, rau gai. Sơn thục Lasia spinosa (L) Thw. Họ Ráy Aeaceae cây thảo nguồn gốc Ấn Độ sang các nước khác. Ở nước ta mớp mọc hoang khắp nơi chỗ ẩm ướt, ven suối, bờ ao, bãi lầy, mương rạch từ đồng bằng lên rừng núi. Mọc thành đám. Lá non dùng làm rau luộc ăn hoặc muối dưa.
Để làm thuốc dùng thân rễ, tính mát, vị cay chát. Có tác dụng lợi tiểu mạnh, mát gan, tiêu viêm. Chữa phù thũng, đau nhức, khớp, ngứa lở ngoài da xơ gan cổ chướng (sắc 15 – 20g) trị chứng sốt rét.
6. Rau tai voi (R – lưỡi bò), Pentaphragma gamopetalum Gagnep. Họ Rau tai voi Pentaphragmataceae. Cây thảo mọc ở các vùng núi cao 700 – 1200m (Rừng Lâm Đồng: Đà Lạt, Bảo Lộc, Đồng Nai) Kon Tum (Đác Plây) và Gia Lai (Măng Giang). Tên dân tộc gọi Clonh srơma. Lá và quả nấu canh ăn ngon.
Loài rau tai khác có tên rau tai nai, R bánh lái (Quảng Trị) Pentaphragma sinense Hensl. ex. Wils phân bổ ở Lào Cai, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Quảng Trị, Quảng Nam, Đà Nẵng. Gia Lai – Kon Tum… Dùng các phần non làm rau ăn.
7. Rau bép (Rau danh) Gnetum gnemon L. var griffithii Markgr. Họ Giây gắm Gnetaceae. Cây bụi. Gặp nhiều ở rừng Tây Nguyên, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc. Lá và hạt đều ăn được, lá nấu canh suông hoặc với thịt ăn ngọt. Hạt rang ăn bùi như lạc.
Với cây bép chưa biết có được dùng làm thuốc không. Còn những loài gần với dây bép như dây gắm (Gnetum montanum Mgf) thì hạt rang ăn, và dây, rễ làm thuốc giải độc, trị sốt rét, chữa tê thấp, bổ huyết.
8. Cải rừng tía. Rau cẩn Viola inconspicua Blume. Họ Hoa tím Violaceae. Cây thảo, mọc ở nhiều nơi thường ở các bãi suối có cát. Dùng phần non luộc, xào vị đắng nhạt, hơi the tính mát, vào tâm, can. Tác dụng làm mát huyết, giải độc, tiêu viêm. Chữa viêm họng, vú, mắt, mụn nhọt. Trong uống ngoài đắp. Chữa quai bị: lấy 40g lá cải tím, 4g phèn chua giã nhỏ đắp. Chữa dịch tả: Lấy cải tía và hương nhu mỗi vị 40g, sắc uống.
9. Rau vẩy ốc (Đơn rau má, cỏ bi) Pratia nummularia (Lam) A. Br. et Aschers (P.begoniifolia (Wall) Lindl), họ Lô biên Lobeliaceae, cây thảo, nằm bò. Phân bố các nước châu Á. Ở nước ta cây mọc nơi ẩm thấp ven rừng, nương rẫy lối đi vào rừng của vùng núi cao 700 – 2000m. Lá và ngọn non nấu canh, để ăn và làm thuốc. Thu hái mùa hạ, thu. Có vị cay đắng, tính bình. Tác dụng lợi tiểu, hoạt huyết, tiêu viêm trừ thấp. Chữa di mộng tinh, khí hư.
10. Rau tầm bóp (Thù lù cái) Physalis angulata L., họ là Solanaceae, cây thảo hàng năm, mọc ven rừng. Quả ăn sống, chồi lá non luộc, nấu canh. Quả còn dùng làm thuốc thanh nhiệt, tiêu đờm, giảm ho, lợi tiểu: Chữa phù thũng. Đắp ngoài chữa đinh nhọt. Rễ tươi nấu với tim lợn và chu sa chữa bệnh đường huyết cao.
Các rau khác có tác dụng phòng chữa bệnh:
- Rau dớn hay còn gọi là dớn rừng, rau dớn rừng, thái quyết (danh pháp khoa học: Diplazium esculentum) là một loài thực vật hoang dại thuộc họ Rau dớn
- Rau Mã đề trong Đông y gọi là "xa tiền thảo". Cây còn có những tên khác, như "mã đề thảo", "ngưu thiệt thảo", người Thái gọi là "nhả én dứt", người Thổ gọi là "su ma", ... tên khoa học là Plantago asiatia L. (Plantago major L. var. asiatica Decaisne), thuộc họ Mã đề (Plantaginaceae).
- Rau má hay tích tuyết thảo hoặc lôi công thảo (danh pháp hai phần: Centella asiatica) là một loài cây một năm thân thảo trong phân họ Mackinlayoideae
- Rau ngót, bù ngót, bồ ngót, hay rau tuốt (danh pháp hai phần: Sauropus androgynus) là một loài cây bụi mọc hoang ở vùng nhiệt đới Á châu
- Rau Mảnh bát hay còn gọi là Bát bát, Hoa bát, Dây bình bát, Dưa dại, Dây miểng bát (Nam Bộ).Tên khoa học: Coccinia cordifolia (L.) Cogn, họ Bí (Cucurbitaceae).
- Rau muối có tên khoa học là Chenopodium album thuộc họ cây thảo (Chenopodiaceae) là loại cây được sử dụng làm rau ăn của bà con miền núi, ven biển
- Gia vị: Riềng, Rau mùi tàu (Ngò tàu)
- Thận trọng loại có độc: Sầu đâu (Hoa, lá ăn gỏi sống, luộc) rất đắng.
RAU LƯỠI BÒ
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Cập nhật ngày 22/2/2014
-Tên gọi khác: Rau tai voi, Rau tai nai, Ngưu thiệt (Hán
Việt), Ngũ cách
(vị thuốc).
-Tên tiếng Anh: (Không
thấy).
-Tên khoa học: Pentaphragma
gamopetalum Gagnep.
-Tên đồng nghĩa :
-Các loài tương cận:
-Mồng tơi
núi: Pentaphragma honbaense.
-Rau bánh láy: Pentaphragma sinensis
1-Phân loại khoa học (Scientific classification)
Cúc (Asterales)
|
|
Họ (familia):
|
|
Rau lưỡi bò (Pentaphragma)
|
|
Loài (species):
|
Pentaphragma
gamopetalum
|
-Họ
Rau lưỡi bò (Pentaphragmataceae, J. Agardh) còn gọi là họ Rau tai voi (ở Việt
Nam). Đây là một họ được tách ra từ họ
Hoa chuông (Campanulaceae), thuộc Bộ Cúc (Asterales). Họ này có duy nhất
1 chi với khoảng 40 loài, chủ yếu là cây thân thảo mọng thịt, với các phiến lá
bất đối xứng thường có mép lá bị xẻ khía. Chúng phân bổ ở khu vực Đông Nam Á và Malesia.
Họ Rau lưỡi bò gồm các loài thực vật
khác biệt với các loài trong họ Hoa chuông (Campanulaceae). Hoa của
chúng dạng xim hình bọ cạp, không cuống, đối xứng tỏa tia, với các cánh hoa
lớn, dễ thấy. Bao phấn hướng ngoại và bầu nhụy nhỏ, chúng có các túi chứa mật
hoa nằm giữa các vách ngăn kết nối đế hoa với bầu nhụy. Quả là dạng quả mọng.
-Chi Rau lưỡi bò (Pentaphragma)
là chi duy nhất thuộc họ Rau
lưỡi bò (Pentaphragmataceae)
hay còn gọi là họ Rau tai
voi (ở Việt Nam).
2-Nguồn gốc và phân bố
-Chi Rau lưỡi bò (Pentaphragma) được các nước trên thế giới phát hiện và công bố có khoảng 129 loài. Tuy nhiên theo Phương tiện thông tin đa dạng sinh học toàn cầu (GBĮIP) ghi nhận và chỉ xác định được 40 loài và
phân bố như sau:
Nước
|
Tổng số loài
Phát hiện
|
Số loài do GBĮIP
Xác định
|
3
|
3
|
|
14
|
6
|
|
1
|
1
|
|
15
|
6
|
|
Hoa Kỳ (Hawaii)
|
1
|
1
|
3
|
||
39
|
15
|
|
23
|
1
|
|
2
|
1
|
|
8
|
2
|
|
20
|
||
Trên thế giới
|
129
|
40
|
Ở Việt Nam các cơ quan khoa học và các tác giả độc
lập đã công bố phát hiện trong chi Rau lưỡi bò có khoảng 20 loài và được Phương tiện thông tin đa dạng sinh học toàn cầu
(GBĮIP) xác định được ba loài đó là:
-Loài Rau
lưỡi bò Pentaphragma gamopetalum.
-Loài Mồng
tơi/Bồ ngót rừng Pentaphragma honbaense.
Ở Việt Nam loài Rau lưỡi bò (Pentaphragma gamopetalum Gagnep.) thuộc Họ Rau lưỡi bò (Pentaphragmataceae)
là loài cây thân thảo đứng mọc ở các vùng núi cao 700 - 1200m thuộc: Rừng Lâm
Đồng (Đà Lạt, Bảo Lộc), Đồng Nai, Kon Tum (Đắc Plây) và Gia Lai (Măng Giang). Tên dân
tộc gọi là Clonh srơma.
Lưu ý! Ở Việt
Nam còn có hai loài cây khác cũng có tên là cây lưỡi bò gồm:
1-Cây rau bánh lái
-Tên
khoa học: Pentaphragma
sinnese
-Tên gọi khác: Cây lưỡi bò, Rau tai
voi, Rau bánh lái
Trong website này có trang riêng với
tên : Rau bánh lái.
2-Cây
chút chít
-Tên
khoa học: Rumex wallichii Meissn.
-Tên
khác: Lưỡi bò, Thổ đại hoàng, Dương đề.
Trong website này có trang riêng với
tên : Cây chút chít.
3-Mô tả
Cây rau lưỡi bò (có lá giống như lưỡi
trâu bò nên gọi là ngưu thiệt).
-Thân: Cây thân thảo đa niên mọc đứng cao 1-1,5 m, đường kính tới 1cm, thân có
rảnh.
-Rể :
Rể mọc khỏe, phình thành củ, ăn sâu trong đất nên chịu hạn tốt.
-Lá :
Lá có phiến hình mũi mác dài, hẹp, không cân đối, hơi nhọn ở hai đầu, dài 12-20 cm, rộng 6-19 cm, có gốc không đều
nhau, phiến lá nhẳn, mép có răng mịn, gân bên 5 đôi nổi rõ ở mặt dưới, cuống lá
dài 5-8 cm có lông.
-Hoa :
Hoa mọc ở ngọn, mọc sát nhau nhất là ở đỉnh, cụm hoa ở nách lá, dài
5cm, có 3-6 hoa, gần như không cuống, bao hoa
có 6 mảnh, lá bắc hình trái xoan, rộng hơn hoa,
đài hoa hình chuông có 5 lá đài không đều, tràng hoa hình đấu, có 5 thuỳ tù,
nhị dính ở gốc tràng, bầu dưới có 2 ô, chứa nhiều hạt.
-Quả :
Quả hình 3 cạnh, bầu dưới có 2 ô, chứa nhiều hạt.
Ở Việt Nam, rau lưỡi bò chỉ gặp ở các
vùng rừng núi ở độ cao 700-1200m ở Rừng Lâm Đồng
(Đà Lạt, Bảo Lộc), Đồng Nai, Kon Tum (Đắc Plây) và Gia Lai (Măng Giang).
4-Thành phần hóa học
Chưa thấy tài liệu
phân tích nào.
5-Công dụng của cây rau lưỡi bò
Rau lưỡi bò có lá và
quả nấu canh ăn ngon như rau mồng tơi nên được dùng làm rau và dùng làm thuốc.
a- Cây rau lưỡi bò được dùng làm rau
Lá và đọt non được dùng nấu canh ăn
ngon như rau Mồng tơi.
Cây rau lưỡi bò được Công ty Sannamfood
sưu tầm, sản xuất và bán ở các siêu thị ở Hà Nội như một loại rau sạch.
Chất lượng: Tất
cả các loại Rau Xanh-Rau Rừng do Sannamfood sản xuất đều đảm bảo thoả mãn các
tiêu chí rau sạch tự nhiên & rau an toàn 100% theo quy trình tự động &
khép kín từ trồng trọt, thu hái, đóng gói, tới giao hàng trực tiếp từ trang
trại tới tận nhà khách hàng bằng xe chuyên dùng, không qua bất kỳ trung gian
nào.
Cách bảo quản: Để
nguyên túi trong ngăn mát tủ lạnh, dùng trong vòng 5-7 ngày. Trước khi chế biến
rửa bằng nước sạch.
b-Cây rau lưỡi bò được dùng làm thuốc
Theo Đông y : Cây rau lưỡi bò
có vị chua đắng, tính lạnh tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, nhuận tràng, sát
trùng… Có tác dụng chữa táo bón, mụn nhọt, hắc lào, ứ huyết sưng đau…
Bộ phận dùng làm thuốc là rễ củ, thu
hái quanh năm, nhưng tốt nhất là vào mùa thu đông. Đào lấy rễ cây già, rửa
sạch, bỏ rễ con, để nguyên hoặc thái mỏng, phơi hay sấy khô. Dược liệu là mấu
rễ tròn, dài 10-20cm, đường kính 1-1.5cm, vỏ ngoài màu vàng nâu hay nâu tươi,
có vết nhăn dọc, cắt ngang vết cắt không bằng phẳng, lổn nhổn màu vàng, mùi
nhẹ.
c- Công dụng khác cũa cây rau lưỡi bò
Chỉ mới biết là trong dân gian, người
ta dùng quả cây để ăn và chế rượu.
6-Một số bài thuốc Đông y từ cây rau lưỡi bò
1- Chữa
táo bón: Rễ lưỡi bò 4g, cam thảo 4g. Tất cả rửa sạch đổ 3 bát con nước sắc
còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày, uống lúc còn nóng. Uống liền 3 ngày.
(Theo Lương y Hữu Đức
- SK&ĐS).
2- Chữa
hắc lào: Dùng rễ lưỡi bò 90g, phơi khô ngâm với 600ml rượu, mỗi ngày lắc
bình 1 lần, ngâm khoảng 10 ngày, lọc lấy nước bôi vào vùng da bị hắc lào đã rửa
sạch thấm khô, ngày 1 lần. Dùng liền 5 ngày. (Theo Lương y Hữu Đức
- SK&ĐS).
3- Chữa
mụn nhọt sưng đau (chưa vỡ mủ): Rễ lưỡi bò 15g, thái mỏng, cho thêm ít dấm
đắp vào mụn khoảng 1- 2 giờ, tháo bỏ thuốc ngày một lần, đắp liền 3 ngày. (Theo
Lương y Hữu Đức
- SK&ĐS).
4- Chữa
mẩn ngứa do nóng: Dùng lá lưỡi bò tươi 15g, rửa sạch giã nát, sát nhè nhẹ
nơi ngứa, sau khi đã rửa sạch, lau khô ngày 2 lần. (Theo Lương y Hữu Đức
- SK&ĐS).
Lưu ý ! Những người hư hàn, tiêu chảy không
dùng. (Theo Lương y
Hữu Đức - SK&ĐS).
7-Giới thiệu một số loài rau rừng khác có tên Lưỡi bò ở Việt Nam
1-Cây rau bánh lái
-Tên khoa học: Pentaphragma sinnese
-Tên gọi khác : Cây lưỡi bò, Rau
tai voi, Rau bánh lái
Trong website này có trang riêng với
tên : Rau bánh lái.
2-Cây
chút chít
-Tên
khoa học: Rumex wallichii Meissn., Họ Rau răm
(Polygonaceae), Bộ Hoa cẩm chướng (Caryophyllales).
-Tên
khác: Lưỡi bò, Thổ đại hoàng, Dương đề.
Trong website này có trang riêng với
tên : Cây chút chít.
RAU TAI VOI NHỎ
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Cập nhật ngày 20/2/2014
-Tên gọi khác: Cây tai voi nhỏ, Cây rita nhỏ, Ban diệp thần trụ cự
dài (vị thuốc).
-Các loài tương cận:
Hoa oải
hương (Chirita lavandulacea).
1-Phân loại khoa học (Scientific classification)
Hoa môi (Lamiales)
|
|
Họ (familia):
|
Tai voi (Gesneriaceae)
|
Loài (species):
|
Chirita pumila là
một loài thực vật có hoa trong họ
Tai voi. Loài này được D.Don miêu tả khoa học đầu tiên năm 1825.
Lưu ý!
Ở Việt Nam
tên gọi Họ Tai voi đang tranh chấp giữa hai họ thực vật là Họ Gesneriaceae và Họ Pentaphragmataceae hay Pentaphragmaceae. Chính sự
tranh chấp này dẫn đến sự lộn xộn trong phân loại.
Các trang
web trong mạng xã hội đã có nhiều sự nhầm lẩn do sự lộn xộn này nên dẫn đến
nhiều hậu quả tai hại nhất là về nhận dạng các loài cây có tên Tai voi và các
bài thuốc Đông y liên quan đến Cây tai voi.
Để hợp lý
trong tên gọi phù hợp với tính mô tả trong tiếng Latin nên gọi:
-Họ
Tai voi hay họ
Khổ cự đài hoặc họ
Phong lữ có tên khoa học là Gesneriaceae. Điển hình trong họ nà là chi
tai voi (Chirita)
gồm những loài có lá rộng và gần tròn (như tai voi).
-Họ Rau lưỡi bò Có tên khoa học là Pentaphragmataceae hay Pentaphragmaceae. Các loài trong chi này có dạng lá hẹp
và dài (giống như lưỡi bò).
Khi đề cập đến các loài rau rừng và cây
thuốc nên có đầy đủ tên khoa học và mô tả nhận dạng chi tiết hơn.
Tên “Rau tai voi” trong tiếng Việt để gọi tên ít nhất 5 loài thực vật
khác nhau, tên rau tai voi đang gây sự lầm lẩn giữa một số loài trong hai họ
thuộc hai bộ khác nhau là họ Pentaphragmataceae (thuộc Bộ
Cúc-Asterales) và họ Gesneriaceae (thuộc Bộ Hoa môi - Lamiales). Hiện nay tên gọi giữa các
loài còn tranh chấp nhau trong tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Latin và chưa có
sự phân định rõ ràng giữa tên các chi và loài trong tiếng Việt ở một số chi và
loài trong hai họ này.
Tên Cây tai voi trong tiếng Việt bao gồm
các loài sau đây:
-Tên đồng nghĩa: Primulina colaniae
-Phân bố: Là loài cây đặc hữu của Việt
Nam, chỉ thấy mọc ở vách đá, đất ẩm, dọc theo suối trong rừng ở các tỉnh Hà
Bắc, Bắc Thái, qua Quảng Bình, Quảng Nam-Ðà Nẵng, tới các tỉnh Tây
Nguyên.
Trong website
này có trang riêng với tên : Rau tai voi
Trong website
này có trang riêng với tên : Rau tai voi hoa phểu
-Phân
bố: Loài của Nam Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta cây mọc rải rác nhiều
nơi ở Bắc bộ, Trung bộ vào tới Kiên Giang. Thường
gặp trên núi đá vôi, ở độ cao 800 - 1500m.
Trong website
này có trang riêng với tên : Rau tai voi lông móc câu
4- Rau
tai voi nhỏ (Chirita pumila)
-Phân
bố: Loài của Nam Trung Quốc, Nêpan, Việt Nam. Ở nước ta, có gặp tại Sa
Pa, tỉnh Lào
Cai. Thường mọc ở rừng núi trên độ cao 1000 - 2500m.
Trong website này có trang riêng với tên : Rau
tai voi nhỏ
1-Loài Rau lưỡi bò (Pentaphragma gamopetalum Gagnep.)
-Tên gọi khác : Rau tai voi, Rau tai nai,
Ngưu thiệt (Hán Việt), Ngũ cách (vị thuốc).
-Phân
bố : Ở Việt Nam Rau lưỡi bò phân bố ở Rừng Lâm Đồng (Đà Lạt,
Bảo Lộc), Đồng Nai, Kon Tum (Đác Plây) và Gia Lai (Măng Giang).
Loài này có trang web riêng với tên: Rau
lưỡi bò.
2-Loài Rau bánh lái (Pentaphragma sinnese)
-Tên gọi khác : Rau tai voi, Rau lưỡi bò.
-Phân
bố : ở Lào Cai, Vĩnh Phúc (Tam Đảo),
Quảng Trị, Quảng Nam, Đà Nẵng. Gia Lai - Kon Tum…
Loài này có trang web riêng với tên: Rau bánh
lái.
2-Nguồn gốc và phân bố
Theo Hệ thống APG II (4/2003):
-Bộ Hoa môi (Lamiales) có ít
nhất 24 họ, 1.059 chi với khoảng 23.800 loài.
-Họ
Tai voi (Gesneriaceae)
có 147 chi với khoảng 3.200 loài có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của Cựu thế giới
và Tân thế giới.
-Chi
Rau tai voi (Chirita) có khoảng 150
loài có nguồn gốc ở Ấn Độ, Đông Nam Á và nam Trung Quốc được công nhận. Có
khoảng 100 loài đặc hữu của Trung Quốc.
Từ “Chirita” là
tên Latin bắt nguồn từ tiếng Hindu “Chiraa”, tên dân gian ở Ấn Độ để chỉ loài cây
Chiraeta/Chiruta (Tai voi).
Có 77 loài Rau tai voi phân bố từ Ấn Độ đến Malaixia,
Inđônêxia.
Ở Việt Nam phát hiện được có 21 loài, phân bố ở Bắc Giang, Thái Nguyên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam đến
các tỉnh Tây Nguyên.
Cây mọc ở vách đá, đất ẩm, dọc theo
suối trong rừng. Trong đó có một số loài
được dùng làm rau, trồng làm cảnh, một số loài được dùng lấy nguyên liệu làm
thuốc. Trong đó có 4 loài quan trọng là:
-Loài Rau tai voi nhỏ (Chirita pumila)
Thuộc : Chi Rau
tai voi (Chirita), Họ
Tai voi (Gesneriaceae), Bộ Hoa môi (Lamiales). Loài này phân bố ở nam Trung Quốc (Quảng Tây, Tây Nam Quý Châu, Tây Tạng và Vân Nam, Bắc Ấn Độ, Nepal, Myanmar , Thái Lan và bắc Việt Nam.
Cây
sống theo rừng, bờ suối, vách đá hoặc giữa các khối cỏ, ở độ cao 800-2800 m.
Trong website này có trang riêng với tên : Rau
tai voi nhỏ
3-Mô tả
Cây thân thảo nhỏ, sống lâu năm.
-Thân:
Cây thân nhỏ, có lông, cao 20-30 cm, chia 3-5 đốt dài 5-8 cm, đường kính 2,5-5 mm.
-Lá:
Lá có phiến hình trứng, dài 2-12cm, rộng 1,2-5,5cm, chóp tù, gốc tù tròn, đầy
lông phún ở cả hai mặt; gân phụ 6-7 cặp. Cuống lá dài 4-15mm.
-Hoa:
Cụm hoa ở ngọn; hoa có 5 lá đài cao 12mm, dính đến 1/2, có lông trắng, tràng
màu lam tím, có nhiều lông trắng, dài 3,5cm, chia 2 môi với thùy tròn, nhị sinh
sản 2, bầu không lông.
-Quả:
Quả nang mảnh, dài 8-10cm.
-Hạt: Hạt nhỏ.
4-Thành phần hóa học
Chưa thấy tài liệu phân tích nào.
5-Công dụng
a-Dùng làm rau
Lá và đọt non Cây rau tai voi nhỏ có thể dùng làm rau ăn,
không độc.
Tuy nhiên do cây sống lâu năm nên thường gặp lá già, ít thấu
lá non nên ít được chú ý để làm rau ăn. Lá và đọt còn non, mềm đều có thể làm
rau ăn bằng cách luộc, xào hoặc nấu canh.
b-Dùng làm thuốc
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Chiritae Pumilae.
Tính vị, tác dụng: Cây có tác dụng chỉ khái, chỉ huyết, thư cân hoạt huyết,
tiêu thũng chỉ thống.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: ở Trung Quốc, người ta dùng cây này để trị ho khạc ra máu,
bạch đới, đòn ngã sưng tấy.
6-Giới thiệu một số loài rau rừng khác có tên Rau Tai voi ở Việt Nam
-Tên gọi
khác : không có.
-Tên đồng nghĩa: Primulina colaniae
-Phân bố: Là loài cây đặc hữu
của Việt Nam, chỉ thấy mọc ở vách đá, đất ẩm, dọc theo suối trong rừng ở các
tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái, qua Quảng Bình, Quảng Nam-Ðà Nẵng, tới các tỉnh Tây
Nguyên.
Trong website
này có trang riêng với tên : Rau tai voi
Thân rất ngắn, có lông. Lá mọc so le,
hình bầu dục, có mép khía lượn tai bèo, có lông nhiều ở cả hai mặt; cuống lá có
lông.
Cụm hoa là những xim thưa gồm độ 12 hoa
có lá bắc. Cuống hoa có lông. Lá đài 5, thuôn hẹp. Tràng màu trắng có viền tím
hay xanh lơ, dạng phễu chia 2 môi, môi trên 2 thùy, môi dưới dài hơn có 3 thùy.
Nhị sinh sản 2, đính phía giữa ống tràng; nhị lép 2 - 3; đĩa ngắn hình đấu; bầu
thuôn. Quả nang hẹp, hơi cong, mang vòi nhụy dài ở đầu.
Cây mọc trong các rừng trên núi đá.
Cây có hoa đẹp, có thể trồng làm cảnh.
Cây thảo, thân cao 15 - 20 cm, mọc
đứng, có khi hơi có lông. Lá mọc đối, hình trứng hay bầu dục, dài đến 15cm,
nhọn, có gốc tròn hay tù, cả hai mặt có lông mềm đa bào, mép nguyên hoặc hơi
khía tai bèo.
Cụm hoa có cuống chung dính vào cuống
lá; cuống hoa xếp từng đôi trên cuống lá. Đài có 5 thùy sâu, thùy có 3 gân, có
lông ở đỉnh. Tràng màu trắng hay tím lam dạng phễu chia 2 môi với 5 thùy không
đều. Nhị sinh sản 2; chỉ nhị hình sợi, có lông tới tận đỉnh; bao phấn hình
thận. Bầu có lông, thuôn; vòi hình trụ, có lông; đầu nhụy chẻ đôi. Quả nang hơi
cong, có điểm ít lông thưa; hạt màu nâu sẫm, hình thoi.
Loài của Nam Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước
ta cây mọc rải rác nhiều nơi ở Bắc bộ, Trung bộ vào tới Kiên Giang.
Thường gặp trên núi đá vôi, ở độ cao
800 - 1500m.
Ra hoa từ tháng 3 đến tháng 7 - 8.
Cây được trồng làm cảnh.
Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng làm
thuốc trị tiểu tiện bất lợi và rắn cắn.
6.4. Rau tai
voi (Rau lưỡi bò), Pentaphragma gamopetalum Gagnep.
Họ Rau
lưỡi bò Pentaphragmataceae. Cây thảo mọc ở các vùng núi cao 700 - 1200m (Rừng
Lâm Đồng: Đà Lạt, Bảo Lộc, Đồng Nai) Kon Tum (Đác Plây) và Gia Lai (Măng
Giang). Tên dân tộc gọi Clonh srơma. Lá và quả nấu canh ăn ngon.Loài rau tai khác có tên rau tai nai, R bánh lái (Quảng Trị) Pentaphragma sinense Hensl. ex. Wils phân bổ ở Lào Cai, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Quảng Trị, Quảng Nam, Đà Nẵng. Gia Lai – Kon Tum… Dùng các phần non làm rau ăn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét