những bài thuốc từ rau dại dễ sử dụng, không mất tiền mà nó còn có thể giúp chúng ta tự bảo vệ và tăng cường sức khỏe.
Rau
càng cua (Peperomia peliucida, họ hồ tiêu): Đây là loại cỏ mọng nước,
mọc nhiều ở các chân tường ẩm, vùng đất ruộng ẩm ướt. Hoạt chất chiết từ
rau càng cua có tác dụng chống viêm, giảm đau nhức, kháng khuẩn rộng
trên các chủng S. Aureus, B. Subtilis, P. Aeriginosa và E. Coli, dịch
chiết trong clorofoc có tác dụng kháng nấm T. Mentagrophytes.
Ở nhiều
nước trên thế giới người ta dùng toàn cây rau càng cua làm thuốc chữa
đau bụng, áp xe, mụn, phỏng nước, gout, rối loạn chức năng thận, thấp
khớp. Người dân Bolivia và dân Brazil dùng toàn cây chữa các chứng xuất
huyết, sốt cao, làm lành vết thương, chữa ho, hạ cholesterol huyết và
trị bệnh tiểu nhiều protein. Mỗi ngày dùng tươi từ 100-200 g hoặc sắc
lấy dịch chiết cô đặc chia nhiều lần uống trong ngày.
Rau dền
canh (Amaranthus tricolor): Còn gọi là rau dền tía, rau dền cơm, rau
dền gai và mọc hoang hoặc được trồng nhiều để làm rau ăn, luộc, xào hoặc
nấu canh. Trong lá rau dền chứa hàm lượng vitamin A rất cao, ngoài ra
còn có vitamin B, C, PP, nhiều protid đặc biệt là lysin với hàm lượng
cao hơn cả bắp, lúa mì và đậu tương.
Rau dền
có vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, sát trùng, giải độc. Mỗi
ngày, 200-500 g rau dền luộc ăn và uống cả nước hoặc đem nấu canh ăn
giúp thông tiểu, nhuận trường, chữa táo bón, kiết lỵ, các trường hợp dị
ứng, mẩn ngứa hoặc do côn trùng đốt. Dùng luôn cả hoa và hạt rau dền có
tác dụng trừ phong nhiệt, chữa mắt mờ, mắt có màng mộng (phối hợp thêm
hạt thảo quyết minh cùng lượng, sắc uống).
Rau dừa
nước (Ludwigia adscendens): Còn gọi là rau dừa, mọc hoang nhiều ở các
ruộng nước, ao đầm, mương rạch, thân mềm xốp có nhiều phao xốp màu trắng
giúp cho thân cây nổi trên mặt nước. Thành phần rau dừa nước chứa nhiều
protid, glucid, chất xơ, khoáng tố như canxi, photpho, sắt, nhiều
carotene, vitamin C, flavonoit và tanin. Nhờ vậy rau dừa nước có giá trị
dinh dưỡng khá cao.
Dùng
làm rau ghém ăn mắm kho hoặc luộc nấu canh. Từ lâu người ta dùng rau dừa
để chữa bệnh đường tiết niệu như viêm bàng quang, viêm cầu thận cấp,
tiểu buốt, tiểu gắt, tiểu ra máu và đặc biệt là chứng tiểu ra dưỡng trấp
(tiểu đục); mỗi ngày dùng 30-40 g khô, phối hợp thêm rễ cây đa 20 g, tì
giải 15 g, sắc lấy nước uống trong 5-7 ngày. Rau dừa có vị ngọt nhạt,
tính mát, tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, lương huyết, còn dùng
chữa cảm sốt, đau bụng, dùng ngoài giã đắp còn trị rắn cắn, mụn nhọt,
sưng lở.
Rau
đắng đất (Glinus oppositifolius): Còn gọi là rau đắng lá vòng, mọc hoang
trên các vùng đất khô cạnh bãi sông, ven biển, nhiều nhất ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Có thể thu hái quanh năm, nên hái lúc cây chưa ra
hoa, rửa sạch, ăn sống hoặc làm rau ghém ăn với món cháo cá lóc. Rau
đắng đất có vị đắng, tính mát, dùng trị kinh phong, nhuận gan, thông
tiểu. Được dùng để chữa các bệnh về gan như viêm gan vàng da, nổi mề
đay, sốt nóng trong người (thêm dây cứt quạ đồng lượng, sắc uống). Mỗi
ngày 50-100 g nấu canh ăn hoặc sắc lấy nước uống.
Rau
mương (Ludwigia hyssopifolia): Còn gọi là cỏ cuốn chiếu, mọc nhiều ở các
vùng ẩm ướt, bờ đê, gò ruộng, rất nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nông dân thường hái ngọn non nấu canh hoặc làm rau ăn, theo y học cổ
truyền, rau mương có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải
độc, trừ thũng, cầm máu, tiêu sưng.
Dùng
làm thuốc cầm tiêu chảy, chữa lỵ, cảm mạo có kèm sốt, viêm hầu họng,
miệng lưỡi, mụn lở sưng đau, ngày 10-20 g lá khô sắc uống, hoặc 100-200 g
lá tươi nấu canh ăn. Nếu viêm miệng lưỡi thì sắc lấy nước súc miệng
ngày 2-3 lần.
Rau sam
(Portulaca oleracea): Mọc hoang dại trong các bãi cỏ, công viên, vườn,
sân, bờ ruộng. Rau sam có vị chua hơi đắng, tính mát, chứa nhiều
glycosit, saponin, chất nhầy, axít hữu cơ, muối kali và nhiều vitamin
như A, B1, B2, C và PP. Rau sam có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lọc
máu, nhuận trường, tẩy giun, an thần nhẹ. Được dùng để trị viêm ruột
cấp, lỵ, ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun kim (phối hợp thêm
cỏ sữa), đi cầu ra máu (thêm cỏ mực, rau má), ho gà, ho lâu ngày, niệu
đạo xuất huyết như tiểu ra máu, sỏi niệu.
Mỗi
ngày 15-30 g lá khô hoặc 50-100 g lá tươi sắc lấy nước uống. Có thể ăn
như rau sống, xào chín hoặc làm rau ghém chấm mắm kho ăn cho mát. Dùng
ngoài giã đắp chữa mụn nhọt, đinh râu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét