LƯỢC VÀNG
1. Tên khoa học: Callisia fragrans (Lindl.) Woodson.
2. Họ: Thài lài (Commelinaceae).
3. Tên khác: Lan vòi, địa lan vòi, lan rũ, cây bạch tuộc, rai lá phất dũ, giả khóm.
4. Mô tả:
Cây
thảo, sống lâu năm. Thân đứng cao từ 15-40 cm, có thân bò ngang trên
mặt đất. Thân chia đốt và có nhánh. Đốt ở phía thân dài từ 1-2 cm, ở
nhánh có thể dài tới 10 cm. Lá đơn, mọc so le, phiến lá thuôn hình ngọn
giáo, 15-20 cm x 4-6 cm, bề mặt nhẵn, mặt trên xanh đậm hơn mặt dưới,
mọng nước. Bẹ lá ôm khít lấy thân. Mép lá nguyên, thường có mầu vàng khi
lá già. Gân lá song song. Lá thường có mầu tím ở những cây có nhiều ánh
sáng. Hoa hợp thành xim, sắp xếp ở ngọn một trục dài và cong thành
chùm. Cụm hoa không cuống, gồm 6-12 bông. Hoa mầu trắng, có cuống, cuống
hoa dài 1 mm. Lá bắc ngoài cụm hoa hình vỏ trấu, 1 cm x 1 cm, mầu vàng.
Lá bắc của hoa hình lòng thuyền, kích thước 1,5 mm x 3 mm, phần dưới
trắng, phần trên xanh, mép nguyên, có lông mịn phía dưới. Tràng 3, hình
trứng, kích thước khoảng 1 mm x 2,5 mm, mầu trắng, mép nguyên. Nhị 6,
rời, chỉ nhị dài khoảng 1,5 mm, phần dưới dính với cánh hoa, bao phấn
hình hạt đậu, kích thước khoảng 1/3 x ¼ mm, đính vào hai bên trung đới.
Bầu trên, 3 ô, cao khoảng 0,5 mm, vòi nhụy hình trụ, dài khoảng 1,5 mm,
núm nhụy hình chổi.
5. Phân bố:
Cây
có nguồn gốc ở Mexico, được di thực sang nước Nga, rồi đến Việt Nam
(đầu tiên là tỉnh Thanh Hóa). Nay đã phát triển rộng ra nhiều tỉnh khác,
đặc biệt là Hà Nội.
6. Trồng trọt:
7. Bộ phận dùng:
Toàn cây
8. Thành phần hóa học:
Các
lipid gồm: Triacyglyceride, sulfolipid, digalactosyglycerides. Các acid
béo: paraffinic, olefinic. Acid hữu cơ. Các sắc tố caroten, chlorophyl.
Phytosterol. Các vitamin PP, B2 và các nguyên tố vi lượng: Fe, Cr, Ni,
Cu. Các flavonoid: quercetin, kaempferol isoorientin
(3′,4′,5,7-tetrahydroxyflavone-6-C-β-D-glucopyranoside).
9. Công năng:
Thanh nhiệt, giải độc, nhuận phế, tiêu viêm, hóa đàm, lợi thủy.
10. Công dụng:
Việc
sử dụng cây Lược vàng làm thuốc mới chỉ được công bố ở Nga theo bài
viết của tác giả Vladimir-Ogarkov đăng trên tạp chí sức khỏe và đời sống
của Nga. Cây Lược vàng được dùng để chữa bệnh đường dạ dày ruột, túi
mật, lá lách và cả bệnh hen phế quản, dị ứng và ung thư. Các chế phẩm
thuốc từ Lược vàng cũng có hiệu quả làm ngừng đau, trừ ngứa, làm liền
sẹo, bỏng, chấn thương và gãy xương.
Ở
Việt Nam, đặc biệt ở Thanh Hóa, nhiều người ở câu lạc bộ Hàm Rồng đã sử
dụng cây Lược vàng để chữa rất nhiều bệnh theo kinh nghiệm dân gian Nga
như: viêm họng, viêm phế quản, tê liệt chân tay, đau lưng, khớp, bướu
cổ di chứng não, tim mạch, huyết áp và xơ vữa động mạch, u nang buồng
trứng.
11. Liều dùng, cách dùng:
Dạng
dùng thông thường là lấy cây tươi rửa sạch, nhai với ít muối, nuốt nước
(mỗi lần 2-3 lá) hoặc cắt nhỏ, toàn bộ thân rễ thì ngâm rượu uống, làm
thuốc bóp ngâm rượu, uống (mỗi lần 1/3 chén con). Ngày dùng 3 lần. Dùng
ngoài, giã đắp hoặc xoa bóp bằng rượu ngâm lá.
Ghi chú: Không nên uống với liều lượng quá nhiều, đề phòng tụt huyết áp.
---------------------------------------------------- Cây lược vàng (basket plant) – cây thuốc quý hơn cả vàng
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, dịch ép từ cây lược vàng rất giàu các chất kích thích sinh học có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của nhiều loại tế bào ung thư. Cây lược vàng
có tên tiếng Anh là “basket plant” (cây giỏ – vì thường được trồng
trong những giỏ nhỏ để trong nhà) tên Latinh là Callisia fragrans, thuộc
họ thài lài Commelinaceae. Chính nhờ thành phần các chất sinh học hiện
diện trong cây có tác dụng hiệu quả trên cơ thể người, mà cây lược vàng đang được nhiều nước quan tâm nghiên cứu.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học Mỹ và Canada, dịch ép từ cây lược vàng rất giàu các chất kích thích
sinh học có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của nhiều loại tế bào ung
thư. Những chất này còn có khả năng chữa lành các bệnh mắt, viêm loét dạ
dày tá tràng, hen suyễn, và nhiều bệnh khác nữa. Nó làm tăng quá trình
biến dưỡng, làm tăng khả năng bảo vệ cơ thể và đồng thời thúc đẩy quá
trình tái sinh (đổi mới) các tế bào trong cơ thể.
Toàn cây chứa các chất có hoạt tính sinh
học gồm flavonoid, steroid và nhiều khoáng tố vi lượng có lợi cho sức
khoẻ. Chất flavonoid đóng vai trò như vitamin P có khả năng làm bền mạch
máu và tăng tác dụng của vitamin C. Những hoạt chất này còn có tác dụng
giảm đau, an thần, kháng viêm, hoạt huyết, được dùng để chữa lành vết
thương, vết bỏng, vết bầm tím. Dân gian dùng làm phương thuốc chữa bệnh
loét dạ dày tá tràng, lợi tiểu, ngăn ngừa và điều trị các khối u trong
cơ thể. Hai chất flavonoid được xác định là quercetin và kaempferol.
Quercetin là một chất chống oxy hoá tế bào mạnh, có khả năng kháng ung
thư và tăng sức bền thành mạch, còn hữu ích trong trường hợp dị ứng,
chảy máu thành mạch, viêm thận, thấp khớp, bệnh tim mạch, bệnh mắt và
các bệnh nhiễm trùng. Kaempferol giúp củng cố mao mạch, nâng đỡ thể
trạng, tăng sự đào thải nước tiểu và khả năng kháng viêm, được dùng chữa
viêm nhiễm, dị ứng và bệnh đường tiết niệu. Hai chất này hợp đồng cộng
lực, nhờ đó mà hiệu quả điều trị được gia tăng.
Chất steroid trong cây chính là
phytosterol. Chất này có hoạt tính estrogen, tác dụng sát khuẩn, chống
xơ cứng và kháng ung thư. Cây lược vàng còn có khả năng tẩy uế không khí
ô nhiễm trong phòng, phóng thích những chất có ích cho việc điều trị
các bệnh thuộc đường hô hấp.
Coi chừng tác dụng phụ
Gần như loại thảo dược nào cũng có khả
năng gây tác dụng phụ và cây lược vàng không là ngoại lệ. Các tác dụng
phụ thường gặp nhất của việc sử dụng thảo dược này là tổn thương các dây
thanh quản, gây dị ứng phát ban và sưng phù, đặc biệt là ở những người
có hệ miễn dịch suy yếu và dễ dị ứng. Do đó, chỉ được chấp nhận sau khi
có ý kiến của bác sĩ.
Tóm lại, cho dù đã được nghiên cứu nhưng
đôi khi các kết quả vẫn chưa đủ để tạo chứng cứ khoa học cho một loại
thuốc mới, nên vẫn cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để biết cách sử dụng,
liều lượng, dạng thích hợp, không nên tự ý sử dụng và luôn nhớ một loại
thuốc không thể chữa được nhiều bệnh cùng lúc.
MỘT SỐ CÁCH DÙNG CÂY LƯỢC VÀNG
Đặt cạnh bệnh nhân: cây lược vàng có khả
năng tẩy uế không khí ô nhiễm trong phòng, phóng thích những chất có
ích cho việc điều trị các bệnh thuộc đường hô hấp. Nên đặt những chậu
cây lược vàng bên cạnh chỗ nằm của bệnh nhân viêm phổi hoặc ung thư
phổi.
Dạng dầu:
Cách 1: lấy toàn cây lược vàng đem ép
lấy dịch, bã còn lại đem phơi khô. Khi đã khô thì bẻ vụn ra ngâm trong
dầu ô liu, đậy kín trong khoảng ba tuần. Sau đó trộn chung và lọc qua
gạc mỏng, cho hỗn hợp dầu vào trong lọ thuỷ tinh màu, cất nơi mát.
Cách 2: cắt cây lược vàng thành những
mảnh nhỏ rồi cho hết vào một nồi chịu nhiệt, rót dầu thực vật vào nồi
rồi đem bỏ vào lò hầm ở 40oC trong tám giờ. Sau đó lọc qua gạc mỏng, cho
hỗn hợp dầu vào trong lọ thuỷ tinh màu, cất ở nơi mát. Loại dầu này
được dùng trị bệnh ngoài da hoặc để xoa chữa các chứng viêm khớp, cứng
khớp hoặc bôi để xoa bóp giảm đau toàn thân.
Dạng thuốc mỡ:
Cắt nhỏ toàn cây và nghiền nát trong
cối. Sau đó trộn với vaselin hoặc bột kem nhão để tạo thành một hỗn hợp
theo tỷ lệ 2 : 3. Cho khối thuốc mỡ vào lọ thuỷ tinh màu, để nơi tránh
ánh sáng. Cách bào chế khác là ép lấy dịch chiết của cây và trộn với
vaselin hoặc kem theo tỷ lệ 1 : 3, sau đó cũng cho vào lọ đậy kín, bảo
quản nơi mát. Thuốc mỡ này được dùng để bôi lên các vùng da bị tê cóng,
bầm tím, viêm loét da, và còn được áp dụng để chữa các trường hợp viêm
khớp, cứng khớp và đau nhức.
Chú ý: nên chọn những cây có ít nhất 9 –
10 đốt trở lên (không ngắn dưới 20cm), và có màu tím sậm vì lúc đó hàm
lượng chất kích thích sinh học trong cây đạt mức tối đa.
Chất steroid trong cây chính là
phytosterol. Chất này có hoạt tính estrogen, tác dụng sát khuẩn, chống
xơ cứng và kháng ung thư. Cây lược vàng còn có khả năng tẩy uế không khí
ô nhiễm trong phòng, phóng thích những chất có ích cho việc điều trị
các bệnh thuộc đường hô hấp.
|
Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014
Lược vàng
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét