Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Đỗ trọng


ĐỖ TRỌNG
Cortex Eucommiae
1. Tên khoa học: Vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Đỗ trọng (Eucomia ulmoides Oliv.)
2. Họ: Đỗ trọng (Eucomiaceae). 
3. Tên khác: Xuyên Đỗ Trọng, Tiểu bạch bì đằng.
4. Mô tả:
Cây: Cây nhỡ hay cây to cao 10m hay hơn. Vỏ thân và lá có nhựa mủ trắng, vỏ màu xám, khi bẻ đôi sẽ thấy những sợi nhựa trắng mảnh như tơ nối giữa các mảnh vỏ. Lá mọc so le, hình trứng rộng, dài 6-8cm, rộng 3-7,5cm, màu lục bóng, mép khía răng. Lá cũng có gôm tựa gutta percha như ở vỏ. Hoa đơn tính khác gốc; hoa đực và hoa cái không có bao hoa; hoa đực mọc thành chùm; hoa cái tụ tập 5-10 cái ở nách lá. Quả hình thoi dẹt, màu nâu. Hoa tháng 3-5; quả tháng 7-9.
Dược liệu: Từng tấm phẳng hoặc hai bên mép hơi cong vào, to nhỏ không đều, dày 0,2 - 0,5 cm. Mặt ngoài màu nâu nhạt hoặc màu hạt dẻ, có nhiều nếp nhăn dọc và vết tích của cành con. Loại vỏ mỏng (bóc ở cây ít năm) không cạo bỏ bớt vỏ thô bên ngoài có thể thấy rõ bì khổng. Mặt trong vỏ màu tím sẫm, trơn, chất giòn, dễ bẻ gẫy, mặt bẻ có nhiều sợi màu trắng bạc, có tính đàn hồi như cao su. Vị hơi đắng.
5. Phân bố:
Cây của Trung Quốc mọc hoang ở vùng lạnh và cũng được trồng nhiều. Ta nhập giống vào trồng năm 1958, đến năm 1960, việc trồng thử ở Sapa đạt kết quả tốt. Ta đã nhân giống và trồng ở một số nơi khác ở Vĩnh Phú. Lai Châu, Thanh Hoá, Gia Lai, Lâm Đồng thì nhận thấy cây sinh trưởng tốt ở vùng núi cao trên 1000m.
6. Trồng trọt:
Đỗ trọng sinh trưởng thích hợp ở độ cao 1000-15o00m so với mặt nước biển, nơi có khí hậu lạnh mát quanh năm, nhiệt độ trung bình 15-18oC, cao tuyệt đối 30-32oC, lượng mưa trung bình 2000-2500mm. Cây ưa ánh sáng đầy đủ, tâng đất canh tác sâu và ẩm nhưng thoát nước với pH = 6,5-7.
Trồng Đỗ trọng bằng hạt, bằng cành hoặc bằng rễ.
Trồng bằng hạt:Dùng hạt mới thu hoạch, tỷ lệ mọc cao; hạt để cách năm, tỷ lệ mọc thấp hoặc khong mọc. Thơi vụ gieo thích hợp vào tháng 2-3. Chọn chân đất cao thoát nước, có nước tưới vào mùa khô, để làm vườn ươm. Cày đất trước 1 tháng để cho ải. Đến thời vụ, làm đất nhỏ, nhặt sạch cỏ dại, rễ cây, lên luống cao độ 20cm, rộng 60-70cm. Sau đó cuốc thành từng rạch sâu 7-10cm, cách nhau khoảng 20cm. Dùng phân lợn mục để bón lót, mỗi sào Bắc bộ canf 500-600kg. Trộn phân và đất cho thật đều rồi chuẩn bị gieo hạt. Trước khi gieo, cần ngâm hạt vào nước nóng 25-30oC trong 2-3 ngày. Mỗi ngày thay nước 2-3 lần. Khi thấy hạt phông leenlà được. Vớt hạt và tráng nước sạch. Hạt được gieo vào từng rạch. Nên gieo thưa, hạt cách nhau 2-3cm. Mỗi sào bắc bộ cần độ 4kg hạt. Dùng đất nhỏ trộn với mùn rác phủ lên hạt dày 0,5-1cm. Sau đó, phủ rơm rạ hoặc cỏ khô để giữ ẩm. Sau khi gieo độ 20 ngày hạt mọc. Khi cây cao độ 5cm, nhổ cỏ bằng tay. Về sau, cứ 20-30 ngày làm cỏ vun xới 1 lần. Trong thời kỳ vườn ươm, tưới thúc 2-3 lần bằng phân chuồng loãng hoặc urê. Không nên để cây mọc quá dày. Mỗi sào Bắc bộ giữ lại 15000-16000 cây, tỉa bỏ những cây còi cọc, sâu bệnh.
Trồng bằng cành giâm: Vào mùa xuân, khi cây chưa nẩy lộc, lấy cành bánh tẻ ở cây 1 năm tuổi, chặt thành oạn dài 20-30cm, mỗi đoạn có 3-5 mắt ngủ. Khi cắt, chú ý không làm giập mắt cắt. Có thể nhúng mặt cắt vào dung dịch 2,4 D 10-15 p.p.m trong 3-5 phút, rồi giâm vào luống đất đã chuẩn bị sẵn. Cắm cành giâm chếch khoảng 45o và ngập sâu 2/3 cành, thành hàng cách nhau độ 20cm, hom cách nhau 10-12cm. Sau đó nén chặt đất và phủ rơm rạ kín mặt luống để giữ ẩm cho hom giống khỏi bị khô. Hàng ngày tưới ẩm và làm sạch cỏ.
Trồng bằng cành chiết: Vào mùa xuân hoặc mùa thu, chọn cành bánh tẻ, cắt bỏ khoanh vỏ dài độ 3 cm. Dùng đát bùn trộn với rơm rác hoặc mùn cưa trộn với dung dịch 2,4 D 10-15 p.p.m bó vào vết cắt. Chú ý bó thật chặt và đảm bảo mùn đất luôn ẩm để cành chiết chóng ra rễ.
Trồng bằng rễ; Đào nhẹ đất xung quanh gốc để tìm rễ có đường kính 0,5-1cm hoặc to hơn. Dùng dao sắc khía ngang vỏ rễ thành từng đoạn. Sau một thời gian, từng đoạn rễ sẽ mọc mầm. Khi đến tuổi, chặt thnahf đoạn theo vết khía cũ đem trồng. Ở vườn ươm cây từ hạt, khi đánh cây đi trồng, nếu làm đứt một số rễ thì những đoạn rễ này vẫn mọc mầm được, tiếp tục chăm sóc sẽ được thêm cây giống.
Các phương pháp nhân giống trên thường sau 1 năm mới đánh trồng. Phương pháp ươm từ hạt, hệ số nhân cao, vận chuyển hạt dễ dàng và ít tốn kém.
Đánh trồng vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng tốt nhất trồng vào mùa xuân, khi cây chưa nẩy lộc.
Đào hố trước 1 tháng. Khoảng cách hố 2 x 2m hoặc 2 x 2,5m, hố rộng 30-35cm, sâu độ 30cm. Sau đó cho đất màu và 2-3kg phân chuồng. Trộn đất và phân cho đều rồi tiến hành trồng. Đặt cây giống ngay ngắn, lấp đất chặt xung quanh gốc, tưới nước, rồi lại đắp thêm đất. Cần tưới nước thường xuyên đảm bảo đất luôn ẩm để cây nhanh bén rễ. Trong 3 tháng đầu, mỗi tháng làm cỏ 1 lần. Năm đầu, có thể thúc phân 3 lần. Lần thứ nhất, sau khi cây bén rễ, có thể bón ure. Lần thứ 2, vào tháng 5-6, bón độ 2kg phân chuồng cho mỗi cây. Lần thứ 3, vào tháng 11-12 khi cây bắt đầu rụng lá, cũng bón phân chuồng như lần thứ 2. Khi bón kết hợp vun xới và vệ sinh đồng ruộng. Từ năm thứ 2 đến khi cây được 5 năm, mỗi năm bón thúc bằng phân chuồng 3-5kg cho mỗi cây.. Trong vòng 4-5 năm sau khi trồng, cây còn nhỏ, có thể trồng xen hoa màu như các loại đỗ, khoai lang, mì mạch để tăng thu nhập, đồng thời có tác dụng chống sói mòn và bồi dưỡng đất cho Đỗ trọng, nhưng chú ý không để cây hoa màu lấn át. Khi Đỗ trọng khép tán không nên trồng xen nữa.Có thể cắt tỉa bớt cành vào mùa đông để dinh duwowcx tập trung nuôi thân chính, cây sẽ mau lớn.
Nhân giống: Đỗ trọng trồng ở Sapa khoảng 7-8 năm bắt đầu ra hoa quả. Có cây đực, cây cái riêng biệt. Năng suất và chất lượng hạt giống phụ thuộc vào tuổi cây và điều kiện trồng trọt. Hạt của cây dưới 10 năm tỷ lệ mọc khoảng 10%, trên 10 năm tỷ lệ mọc cao hơn. Nếu trồng thưa, có đầy đủ ánh sáng, cành quả nhiều và hạt mẩy chắc. Vì vậy, ở vườn giống phải trồng thưa, khoảng cách 2,5 x 3,5m hoặc 2 x 3m. Chọn sườn đồi phía nam để trồng Đỗ trọng giống.
7. Bộ phận dùng:
Vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Đỗ trọng (Eucomia ulmoides Oliv.).
8. Thu hái, chế biến:
Thu hoạch vào mùa hạ. Sau khi trồng khoảng 10 năm, chọn nhẵng cây Đỗ trọng có chu vi 50-60cm để thu hoạch. Có thể thu hoạch vỏ vào mùa xuân bằng cách bóc trừ lại 1/3 chu vi thân đảm bảo cho cây vẫn sinh trưởng bình thường, để sau vài năm lại tiếp tục thu hoạch. Vỏ bóc ra đem ép phẳng, xếp thành đống, ủ 6-7 ngày đến khi mặt trong có màu đen. Phơi hoặc sấy khô. Cạo vỏ ngoài cho nhẵn bóng.
Bào chế:
Đỗ trọng: Cạo vỏ thô còn sót lại, rửa sạch, thái miếng hoặc sợi còn tơ, phơi khô, dùng sống hoặc chế.Diêm đỗ trọng (Chế muối): Đỗ trọng thái miếng còn tơ, tẩm nước muối trong 2 giờ (1 kg Đỗ trọng dùng 30 g muối trong 200 ml nước), sao vàng, đứt tơ là được; hoặc sao đến khi mặt ngoài màu đen sém khi bẻ gẫy, tính đàn hồi tơ kém so với khi chưa sao; vị hơi mặn.
9. Thành phần hoá học:
Vỏ cây chứa gutta-pereha, còn có pino-resinol-diglucosid, geniposid, acid geniposidic, ulmoprenol, acid chlorogenic, aucubin, loganin, chất màu, albumin chất béo, tinh dầu và muối vô cơ.
10. Tác dụng dược lý:
10.1. Tác dụng hạ áp: sắc nước và cồn chiết xuất thuốc đều có tác dụng hạ áp, nước sắc còn có tác dụng mạnh hơn, nước sắc Đỗ trọng sao tốt hơn nước sắc Đỗ trọng sống. Cơ chế tác dụng chủ yếu do thuốc trực tiếp làm thư giãn cơ trơn của mạch máu, nhưng có tác dụng hạ áp thời gian ngắn.
10.2. Thuốc có tác dụng hạ cholesterol huyết thanh, dãn mạch tăng lưu lượng máu của động mạch vành.
10.3. Có tác dụng chống viêm, có tác dụng tăng cường chức năng vỏ tuyến thượng thận, tác dụng hưng phấn hệ thống tuyến yên, vỏ tuyến thượng thận.
10.4. Thuốc có tác dụng an thần giảm đau (trấn kinh, trấn thống).
10.5. Thuốc làm tăng tính miễn dịch của cơ thể: thực nghiệm chứng minh thuốc có tác dụng điều chỉnh chức năng của tế bào miễn dịch và nhận thấy lá, cành, vỏ tái sinh của Đỗ trọng đều có tác dụng như nhau.
10.6. Tác dụng đối với tử cung: nước sắc và cồn chiết xuất Đỗ trọng có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập của thỏ và chuột lớn làm cho tử cung ở trạng thái co bóp được hồi phục, nhưng đối với tử cung cô lập của mèo thì tác dụng hưng phấn lại rất nhẹ.
10.7. Thuốc có tác dụng rút ngắn thời gian chảy máu và tác dụng lợi tiểu.
10.8. Thuốc sắc có tác dụng ức chế với mức độ khác nhau đối với tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lî Flexner, trực khuẩn coli, trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn bạch cầu, phế cầu khuẩn, liên cầu khuẩn dung huyết B.
11. Công năng:
Bổ can thận, mạnh gân xương, an thai.
12. Công dụng:
Thuốc bổ thận, gân cốt, chữa đau lưng, mỏi gối, di tinh, đái đêm, liệt dương, phụ nữ khó có thai, động thai. Chữa cao huyết áp.
14. Cách dùng, liều lượng:
5-12g mỗi ngày dạng thuốc sắc, ngâm rượu hay cao lỏng.
15. Bài thuốc:
15.1. Chữa đau vùng thắt lưng: Đỗ trọng, hạt Quít mỗi vị đều 80g, sao, tán nhỏ uống dần với thang nước muối và rượu. Hoặc dùng Tỳ giải, Địa cốt bì sắc cách thuỷ với rượu, uống thường ngày.
15.2. Chữa ra mồ hôi trộm: Đỗ trọng, Mẫu lệ đều bằng nhau tán nhỏ, uống với rượu, mỗi lần một thìa.
15.3. Chữa các chứng trẻ em thuộc hư hàn và bẩm sinh ốm yếu, kinh giản, hen suyễn, lỵ mạn tính, mất tiếng, cam tích, bị trướng, còi xương, chậm nói, chậm đi: Đỗ trọng 4g, Thục địa 4g, Sơn dược 4g, Sơn thù 4g, Phục linh 4g, Ngưu tất 4g, Mẫu đơn 3g, Ngũ vị 2g, Trạch tả 3g, Phụ tử chế 1,2g, Nhục quế 0,8g, sắc uống.
15.4. Chữa phụ nữ sẩy thai quen lệ (uống dự phòng khi thai được 2-3 tháng): Đỗ trọng, Cẩu tích, Ba kích, Thục địa, Vú bò, Củ gai, Dương quy, Tục đoạn, Ý dĩ sao, mỗi vị đều 10g, sắc uống.
15.5. Chữa thận yếu, đau lưng, mỏi gối, liệt dương: Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục đoạn, Đương quy, Thục địa, Ba kích, Cẩu tích, Cốt toái bổ, Mạch môn, Hoài sơn, mỗi vị đều 12g, sắc uống hoặc tán bột làm viên với mật ong, mỗi ngày dùng 15-20g, chia làm 2 lần. Hoặc dùng Đỗ trọng 16g, Tỳ giải 16g, Cẩu tích 20g, Dây đau xương 12g, rễ Gốc hạc 12g, Thỏ ty từ 12g, rễ Cỏ xước 12g, Cốt toái bổ 16g, Củ mài 25g, Sắc uống.
Kiêng kỵ: Âm hư hỏa vượng không nên dùng.
Ghi chú: Hiện nay trên thị trường có vị thuốc Đỗ trọng nam, đây là vỏ thân của một số cây, ví dụ cây Đỗ trọng nam (Parameria glandulifera Benth.), họ Trúc đào (Apocynaceae), cây Cao su (Hevea brasilensis (HBK.) Muell.-Arg.), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét