Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Điều trị thoát vị đĩa đệm bằng laser (PLDD)

Đĩa đệm nằm giữa hai đốt sống, cấu trúc bởi lớp vỏ sợi bọc lớp nhân nhầy ở bên trong, có chức năng giảm xóc, bảo vệ cột sống khỏi chấn thương.

Do nhiều nguyên nhân, lớp vỏ sợi bên ngoài bị rách tạo điều kiện cho lớp nhân nhầy thoát ra theo đường đứt rách và chèn ép lên thần kinh cột sống gây đau.

Nguyên lý của kỹ thuật PLDD là dùng năng lượng laser đốt một lượng nhỏ nhân nhầy, làm giảm áp suất nội đĩa để giải phóng sự chèn ép thần kinh.



Thoát vị đĩa đệm là một bệnh lý phổ biến, dễ mắc phải. Tuỳ mức độ bệnh nhẹ hay nặng mà bệnh nhân có thể cân nhắc giữa phương pháp điều trị bảo tồn (điều trị bằng thuốc đông – tây y, tập thể dục, tập vật lý trị liệu, nghỉ ngơi…) hay các phương pháp can thiệp ít xâm lấn (giảm áp đĩa đệm bằng laser, bằng sóng radio, tiêu nhân nhầy bằng hoá dược, cắt bỏ phần lồi đĩa đệm bằng nội soi qua da..) hoặc nặng nhất là mổ hở khi tất cả các phương pháp khác không có đáp ứng. 
PLDD là kỹ thuật điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống bằng laser đặc sắc nhất mà chúng tôi là êkip duy nhất thực hiện thành công ở Việt Nam từ tháng 6 năm 1999. Đây là một kỹ thuật can thiệp xâm lấn tối thiểu, có độ an toàn và hiệu quả cao, trong nhiều trường hợp có thể thay thế cho phương pháp mổ hở truyền thống.

Ưu điểm

  • Bệnh nhân có thể hoàn thành các bước: khám, nhận chỉ định, can thiệp và ra về trong ngày

Hình ảnh đĩa đệm bị thoái hoá, thoát vị

Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm

Có hai nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống: thoái hoá đĩa đệm và chấn thương. Từ hai nguyên nhân này có thể suy ra rất nhiều nguy cơ từ những thói quen, công việc hàng ngày trong cuộc sống. Phòng bệnh luôn tốt hơn chữa bệnh. Hãy tìm hiểu những nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm và hạn chế những yếu tố nguy cơ bệnh xảy đến!

Có hai nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm là thoái hoá đĩa đệm và chấn thương: 

+Đĩa đệm bị thoái hoá: do quá trình lão hoá tự nhiên, yếu tố di truyền hoặc đĩa đệm không được nuôi dưỡng tốt, lớp bao xơ bên ngoài đĩa đệm bị già đi, suy yếu, dần xuất hiện các đường nứt và không còn chắc chắn để giữ khối nhân nhầy bên trong khiến nhân này thoát ra ngoài qua các khe nứt. Thoái hoá đĩa đệm là nguyên nhân gây ra khoảng 50% các trường hợp thoát vị đĩa đệm.

Xem thêm: Chữa thoái hoá cột sống bằng vật lý trị liệu

+Chấn thương: nếu thoái hoá là một quá trình diễn ra tương đối lâu dài thì đĩa đệm cũng có thể bị thoát vị ngay sau một lực tác động mạnh. Một cú ngã, một lần bưng bê ráng sức sai tư thế, một cú xoay người quá đà đột ngột khiến đĩa đệm bị xoáy, vặn, căng quá mức tạo ra các khe nứt bao xơ.
Tuỳ lực tác động mạnh hay nhẹ mà tình trạng nứt bao xơ có thể chỉ ở mức rạn các vòng bao xơ trong cùng khiến nhân nhầy chưa thoát được ra bên ngoài nhưng đã tràn vào vết rạn và đẩy phần bao xơ này lồi ra ngoài (thoát vị đĩa đệm mức độ nhẹ, vừa: phình, lồi đĩa đệm). Lực tác động quá mạnh có thể khiến lớp bao xơ bị rách hẳn khiến một phần nhân nhầy thoát hẳn ra bên ngoài, đây là mức độ nặng nhất của thoát vị đĩa đệm (thoát vị thoát nhân nhầy, thoát vị có mảnh rời ).

Từ hai nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm này có thể suy ra rất nhiều yếu tố trong sinh hoạt hàng ngày có thể dẫn đến thoát vị đĩa đệm:

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm do tuổi tác


Từ tuổi 25, cơ thể chúng ta đạt ngưỡng phát triển tối đa. Cũng từ lúc này, sự lão hoá bắt đầu diễn ra với tốc độ tỉ lệ thuận với tuổi tác. Thoát vị đĩa đệm thường xảy ra ở tuổi trung niên, khoảng từ 35 đến 45 tuổi, khi đĩa đệm đã bị thoái hoá ở một mức độ nhất định.

Tuổi tác là nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm
             Hình: Tuổi cao dẫn đến thoái hoá đĩa đệm cột sống

Tuy nhiên, sau 60 tuổi thì nguy cơ thoát vị lại giảm xuống, một phần do đĩa đệm bị thoái hoá mất nước nhiều nên áp suất nhân nhầy giảm xuống, mặt khác do ở tuổi này người ta thường ít làm việc nặng và ít chơi các môn thể thao có nguy cơ gây thoát vị cao.

Ở một số người, quá trình thoái hoá xảy ra rất sớm, ở độ tuổi 20. Nguyên nhân một phần có lẽ do di truyền, một phần do dinh dưỡng và hoạt động thể lực không đúng.

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm từ đặc tính nghề nghiệp


Các nhóm nghề nghiệp mang nguy cơ cao nhất là:
+ Công nhân bốc vác, xây dựng, thợ cơ khí thường xuyên phải mang vác, khiêng, bê vật nặng nên cột sống phải chịu tải trọng lớn. Người hay xách vật nặng một tay có nguy cơ thoát vị cao hơn xách cân đối bằng hai tay.

+ Lái xe tải đường dài và lái máy xây dựng: do các rung động, dằn xóc tác động liên tục lên cột sống, lại phải ngồi lâu ở một tư thế khiến dinh dưỡng đĩa đệm kém.

+ Nhân viên văn phòng: tỉ lệ thoát vị đĩa đệm trong giới văn phòng ngày càng gia tăng. Khác với nhóm lao động nặng có nguy cơ thoát vị đĩa đệm do chấn thương cao, nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm đối với những người này là do họ ngồi quá lâu ở một tư thế khiến đĩa đệm không được nuôi dưỡng sớm dẫn đến thoái hoá. Do đĩa đệm bình thường không có mạch máu nuôi dưỡng mà được cung cấp cấp chất dinh dưỡng thông qua quá trình thẩm thấu. Khi cơ thể duy trì ở trạng thái ngồi quá lâu thì áp suất nội đĩa không thay đổi khiến quá trình thẩm thấu và nuôi dưỡng khó xảy ra.

Ngồi lâu là nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm
             Hình: Người làm văn phòng có nguy cơ thoát vị đĩa đệm cao 

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm từ lối sống


Lối sống thiếu khoa học là nguyên nhân dẫn đến thoát vị đĩa đệm, ngay cả đối với những người còn rất trẻ. Cuộc sống thành thị ít vận động, thói quen sử dụng xe máy ngay cả trên những đoạn đường ngắn, không tập thể dục khiến hệ cơ xương yếu đi, không đỡ nổi trọng lượng cơ thể cùng với việc đĩa đệm thoái hoá sớm do không được nuôi dưỡng thông qua quá trình vận động cơ thể khiến nguy cơ thoát vị tăng cao.

Thừa cân, lối sống ít vận động khiến đĩa đệm nhanh bị thoái hoá
             Hình: Thừa cân, lối sống ít vận động khiến đĩa đệm nhanh bị thoái hoá

Ngoài ra, lối sống vội vàng gây tâm lý căng thẳng hay trầm cảm là một trong những nguyên nhân chính gây thoát vị, sau yếu tố di truyền, tải trọng lên cột sống và lao động nặng. 

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm từ thuốc lá


Nghiên cứu cho thấy những người hút thuốc có chỉ số thoái hoá đĩa đệm cột sống cao hơn 18% so với người không hút. Hút thuốc với chu kỳ 3 tiếng một lần làm giảm tới 50% hiệu quả vận chuyển và và 30-40% hiệu quả thẩm thấu các chất hoà tan nuôi dưỡng đĩa đệm khiến tốc độ thoái hoá đĩa đệm diễn ra nhanh hơn. Bản thân đĩa đệm thoái hoá có thể gây đau, ngoài ra, nó làm tăng nguy cơ thoát vị đĩa đệm.

Chất độc từ thuốc lá làm giảm sự nuôi dưỡng đĩa đệm, dẫn đến thoái hoá đĩa đệm
             Hình: Chất độc từ thuốc lá làm giảm sự nuôi dưỡng đĩa đệm, dẫn đến thoái hoá đĩa đệm

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm từ chấn thương


Những chấn thương mạnh, đột ngột do tai nạn, ngã, trượt tạo sự tăng tốc và hãm đột ngột không đồng đều của các phần cơ thể khác nhau tạo nên lực kéo giãn hoặc nén lớn, gây chấn thương cột sống mà phần nhạy cảm nhất là đĩa đệm.

Chấn thương là nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm đột ngột
             Hình: Chấn thương gây thoát vị đĩa đệm đột ngột

Ngoài ra, những động tác nâng nặng, đẩy, kéo thường xuyên, thói quen đeo túi, xách nặng một bên sẽ gây nên các vi chấn thương. Những vi chấn thương này ban đầu chỉ ở mức độ cơ thể không nhận thấy nhưng về lâu dài sẽ dẫn đến nguy cơ thoát vị đĩa đệm.

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm do rung lắc


Khi con người ở lâu trong môi trường thường xuyên rung động như công nhân điều khiển máy công nghiệp, lái xe tải đường dài hay thậm chí thường xuyên phải đi xe máy đường xa qua các đoạn đường không bằng phẳng thì cột sống chịu nhiều ảnh hưởng xấu. Đặc biệt khi đã quen với môi trường rung động, cơ thể chúng ta thả lỏng, điều này khiến tác động của sự rung lên cột sống mạnh hơn do thiếu nâng đỡ của hệ cơ xương.

Nguy cơ thoát vị đĩa đệm do chấn thương thể thao


Hầu hết mọi hoạt động thể thao đều có thể gây chấn thương cột sống nhưng tất nhiên, các môn thể thao vận động mạnh chứa nhiều rủi ro hơn. Những người chơi thể thao nghiệp dư hoặc không thường xuyên tập luyện có nguy cơ thoát vị đĩa đệm cao hơn, một phần do tập luyện không đúng phương pháp, một phần do cột sống không được rèn luyện thường xuyên để thích ứng.

Nói như vậy không có nghĩa là thể thao chỉ có hại cho đĩa đệm mà ngược lại rất tốt cho cột sống nói riêng và sức khoẻ thể chất, tinh thần nói chung. Tuy nhiên, việc lựa chọn môn thể thao phù hợp với thể chất, tuổi tác và tập luyện đúng phương pháp là vô cùng quan trọng.

Điều trị thoát vị đĩa đệm như thế nào?

Tuỳ mức độ bệnh nhẹ hay nặng mà bệnh nhân có thể cân nhắc giữa phương pháp điều trị bảo tồn (điều trị bằng thuốc đông – tây y, tập thể dục, tập vật lý trị liệu, nghỉ ngơi…) hay các phương pháp can thiệp ít xâm lấn (giảm áp đĩa đệm bằng laser, bằng sóng radio, tiêu nhân nhầy bằng hoá dược, cắt bỏ phần lồi đĩa đệm bằng nội soi qua da..) hoặc nặng nhất là mổ hở khi tất cả các phương pháp khác không có đáp ứng.

Vốn dĩ cơ thể chúng ta có cơ chế tự hồi phục. Bệnh nhân ở giai đoạn bệnh nhẹ có thể bắt đầu điều trị bảo tồn trong khoảng sáu tuần. Mục tiêu của điều trị bảo tồn là giúp giảm đau và kích thích quá trình tự hồi phục diễn ra nhanh hơn. Tuy nhiên, nếu điều trị bảo tồn tích cực sau hai - ba tuần mà chưa có tiến triển, thậm chí bệnh trở nặng, bệnh nhân đau nhiều và các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn, bệnh nhân nên được chỉ định các phương pháp ít xâm lấn hoặc thậm chí phẫu thuật để giải quyết tình trạng thoát vị giúp bệnh nhân mau chóng trở lại sinh hoạt vận động bình thường.

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm

Các triệu chứng thoát vị đĩa đệm thay đổi tùy theo vị trí thoát vị và dạng mô mềm có liên quan.
Có 2 nguyên nhân chính gây thoát vị đĩa đệm là thoái hóa cột sống và chấn thương. Tùy mức độ mà biểu hiện của triệu chứng thoát vị đĩa đệm có thể đau ít hoặc không đau, tới đau nặng và dữ dội ở vùng cổ hay thắt lưng, lan đến vùng chịu sự chi phối của rễ thần kinh bị khối thoát vị chèn ép. Các triệu chứng thoát vị đĩa đệm khác có thể là thay đổi cảm giác như tê, ngứa, yếu cơ, mất cảm giác, liệt, rối loạn phản xạ.

Tùy vào vị trí thoát vị, có khi đĩa đệm thoát vị không có triệu chứng rõ ràng. Nếu khối nhân nhầy thoát ra không gây chèn ép lên mô mềm hoặc thần kinh, có thể không gây triệu chứng.

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ có thể có các triệu chứng ảnh hưởng đến vùng sau đầu, cổ, bả vai, cánh tay và bàn tay.

Do có hệ xương sườn nên các đốt sống ở đoạn ngực ít di động, vì vậy, các đĩa đệm đoạn này rất ổn định và thoát vị ít xảy ra.

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có thể ảnh hưởng tới vùng thắt lưng, mông, đùi, vùng hậu môn, sinh dục, và có thể lan tỏa xuống bàn chân và/hoặc các ngón chân. Dây thần kinh hông to hay bị ảnh hưởng nhất, gây nên triệu chứng thần kinh tọa. Bệnh nhân có thể bị tê, ngứa ở chân và bàn chân, cảm giác rát bỏng ở hông và chân.

Thường các triệu chứng thoát vị đĩa đệm chỉ xuất hiện ở một bên, nhưng khi thoát vị lớn và chèn ép vào tủy sống hoặc chùm thần kinh đuôi ngựa thì có thể xuất hiện ở hai bên, kéo theo là những hệ quả nặng nề. Sự chèn ép chùm thần kinh đuôi ngựa có thể gây tổn thương thần kinh và liệt vĩnh viễn.

Xem thêm: Thoát vị đĩa đệm có nguy hiểm không?
              Thoát vị đĩa đệm có thể chữa khỏi không?
Triệu chứng thoát vị đĩa đệm

Đau

Tuy không xuất hiện trong mọi trường hợp, đau là triệu chứng thoát vị đĩa đệm điển hình nhất. Trường hợp thoát vị đĩa đệm do thoái hóa, cảm giác đau thường xuất hiện từ từ và ngày càng nặng lên. Trường hợp thoát vị đĩa đệm do chấn thương, cơn đau có thể xuất hiện đột ngột, dữ dội. Cường độ đau tăng lên trong các trường hợp:
  • + Sau khi đi, đứng, ngồi lâu;
  • + Ban đêm;
  • + Khi hắt xì hơi, ho, cười;
  • + Khi xoay, nghiêng, cúi, ngửa cổ (đối với thoát vị đĩa đệm cổ);
  • + Khi nghiêng, cúi, ưỡn lưng, giơ chân (đối với thoát vị cột sống thắt lưng).

Tê, rối loạn vận động, teo cơ

Lồi đĩa đệm gây chèn ép rễ thần kinh. Sự chèn ép cấp tính, chưa gây viêm rễ thần kinh, có thể gây các triệu chứng tê, liệt nhẹ và yếu cơ.

Các cơ chỉ hoạt động và duy trì kích thước khi có tín hiệu thần kinh kích thích. Sự chèn ép có thể làm cho một số cơ không còn nhận được tín hiệu kích thích từ thần kinh trung ương, làm cho chúng mất hoạt động và teo đi.

Các rối loạn chức năng khác

Sự chèn ép mạnh chùm thần kinh đuôi ngựa có thể gây nên hội chứng chùm đuôi ngựa (cauda equina syndrome). Hội chứng này bao gồm sự mất kiểm soát bàng quang và ruột, gây tiểu tiện và đại tiện không tự chủ, và liệt hai chân. Hội chứng chùm đuôi ngựa cần can thiệp ngoại khoa cấp cứu.

Sự chèn ép các dây thần kinh vùng chậu-sinh dục cũng có thể gây rối loại cương dương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tình dục.

Trong từng trường hợp cụ thể chỉ xuất hiện một số triệu chứng. Ngoài ra, các nguyên nhân khác cũng có thể dẫn đến triệu chứng tương tự. Do vậy, để xác định bệnh tình chính xác, bệnh nhân cần sớm liên hệ với các bác sĩ để được khám và tư vấn.

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng gây chèn ép dây thần kinh hông to (còn gọi là chứng đau thần kinh toạ).
Thoát vị đĩa đệm, còn gọi là trượt đĩa đệm hoặc vỡ đĩa đệm, là tình trạng mà trong đó phần nhân nhầy ở trung tâm của đĩa đệm thoát vào trong ống tuỷ sống. Do quá trình thoái hoá tự nhiên hoặc chấn thương, một vết rách ở lớp vỏ xơ bao quanh nhân nhầy đĩa đệm được hình thành dẫn đến sự thoát ra ngoài của nhân nhầy vào trong ống tuỷ sống. Thoát vị đĩa đệm thường xảy ra ở một bên cơ thể gây chèn ép lên một trong những rễ thần kinh. Các rễ thần kinh bị kích thích gây đau, tê, và làm yếu đi một phần cơ và da mà rễ thần kinh đó tác động trực tiếp.

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng gây chèn ép dây thần kinh hông to (còn gọi là chứng đau thần kinh toạ). Dây thần kinh này chạy dọc từ thắt lưng tới mông, đùi và chân khiến sự chèn ép ở rễ thần kinh nơi thắt lưng lại gây đau và tê râm ran dọc xuống mông, mặt trong hoặc mặt bên đùi xuống bắp chân, thậm chí tới các ngón chân.

Thoát vị đĩa đệm phổ biến nhất xảy ra ở phần thấp nhất của cột sống, đặc biệt ở đĩa giữa đốt sống thắt lưng thứ 4 và thứ 5 (thoát vị đĩa đệm đĩa L4/L5), và đĩa giữa đốt sống thắt lưng thứ 5 và xương cùng (thoát vị đĩa đệm đĩa L5/S1).

Xem thêm: Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ
               Thoát vị đĩa đệm có nguy hiểm không?
              
Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Các triệu chứng điển hình thường gặp là:
  • + Đau chân (đau thần kinh toạ) có thể xuất hiện riêng biệt hoặc đi kèm với đau thắt lưng. Khi đó, bệnh nhân sẽ cảm thấy tình trạng đau nhức ở chân trầm trọng hơn đau thắt lưng.
  • + Tê bì, yếu và cảm giác kim châm trong chân.
  • + Đau thắt lưng hoặc đau mông.
  • + Khó kiểm soát đại, tiểu tiện (rất hiếm gặp), đây là dấu hiệu của hội chứng chùm đuôi ngựa rất nguy hiểm mà bệnh nhân cần tư vấn bác sĩ ngay.

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm L4-5 và L5-S1


Đa số các trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống lưng đều xảy ra ở đĩa đệm tầng L4-L5 hoặc đĩa đệm tầng L5-S1. Bên cạnh những triệu chứng đau thần kinh toạ điển hình, kích thích thần kinh ở những tầng này có thể dẫn đến:
  • + Kích thích thần kinh L5 (do thoát vị đĩa đệm L4-5) gây ra tình trạng yếu, khó gấp, duỗi ngón chân cái và có thể ở cả mắt cá chân. Phần mu bàn chân có thể bị đau và tê. Cơn đau có thể lan xuống mông.
  • + Kích thích thần kinh S1 (do thoát vị đĩa đệm L5-S1) gây ra tình trạng mất phản xạ gân xương và/ hoặc yếu phản xạ nhón chân, bệnh nhân khó nhón chân. Bên cạnh đó, đau và tê có thể lan xuống lòng bàn chân.

Các phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Trong đa số trường hợp, nếu cơ thể bệnh nhân có thể tự cải thiện và hồi phục, quá trình này sẽ diễn ra trong vòng 6 tuần đầu.

Trong khi chờ đợi các triệu chứng tự cải thiện, bệnh nhân có thể chọn nhiều phương pháp điểu trị bảo tồn để giảm đau và kích thích quá trình hồi phục. Những phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm lưng không phẫu thuật là:
  • + Vật lý trị liệu
  • + Tác động cột sống/ Chiropractic
  • + Liệu pháp nóng và/hoặc lạnh
  • + Thuốc kháng viêm không chứa steroid
  • + Tiêm phong bế
Nếu tình trạng đau và những triệu chứng khác không cải thiện sau 6 tuần và bệnh nhân đau nhiều thì có thể tìm hiểu các phương pháp ngoại khoa ít xâm lấn như can thiệp bằng laser. Trong một số trường hợp bệnh nhân không phù hợp với phương pháp ít xâm lấn, ví dụ như khối thoát vị quá lớn hay đĩa đệm bị mất nước nặng v.v, bệnh nhân bắt buộc phải được chỉ định can thiệp bằng phẫu thuật (mổ nội soi, mổ hở). Đây là biện pháp cuối cùng và hiệu quả điều trị tương đối triệt để, tuy nhiên, phẫu thuật đi kèm với nhiều nguy cơ về sức khoẻ và không phải bệnh nhân nào cũng có thể trạng đáp ứng được với một cas phẫu thuật (ví dụ bệnh nhân bị tiểu đường, tim mạch, giảm chức năng gan, thận..).

Bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống lưng có tái phát không?

Theo thống kế, có khoảng 10% bệnh nhân thoát vị đĩa đệm sẽ bị tái phát trên cùng một vị trí, mặc dù đã được điều trị và hồi phục. Tái phát thường xảy ra trong 3 tháng đầu sau điều trị nhưng cũng có thể xảy ra rất lâu sau đó. Thông thường, bệnh nhân bị tái phát có thể thực hiện can thiệp lại.

Nếu thoát vị đĩa đệm bị tái phát rất nhiều lần, bệnh nhân có thể thực hiện phẫu thuật nẹp cố định cột sống, nghĩa là dùng dụng cụ nẹp cứng các đốt sống với nhau để tránh tất cả cử động ở phần cột sống này và loại bỏ hoàn toàn đĩa đệm. Tuy nhiên, phương pháp này hạn chế cử động của bệnh nhân.

Điều trị thoát vị điã đệm cột sống lưng bằng laser – Kỹ thuật giảm áp đĩa đệm cột sống bằng laser qua da

Can thiệp laser là giải pháp tối ưu cho các trường hợp không đáp ứng với các phương pháp điều trị bảo tồn. Trong nhiều trường hợp, kỹ thuật PLDD có thể thay thế mổ hở, giúp các bệnh nhân ở giai đoạn bệnh chưa cần phẫu thuật tránh được các nguy cơ của mổ hở với độ an toàn gần như tương đương với các phương pháp bảo tồn, hiệu quả cao từ 80-90%, thủ thuật nhẹ nhàng không cần lưu viện ở mức chi phí hợp lý.

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ


Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ thường gây đau, tê dọc cánh tay tới các ngón tay.
Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ
Hình 1: Thoát vị đĩa đệm cổ chèn ép lên dây thần kinh

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ thường xảy ra ở những người từ 30 – 50 tuổi. Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cổ có thể do chấn thương hoặc thoái hoá.

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ có tần suất khoảng 1:4 so với thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Đa số trường hợp thoát vị thường đi kèm với thoái hoá cột sống.

Khối thoát vị chèn ép dây thần kinh cột sống cổ gây ra triệu chứng đau, tê và cảm giác kim châm dọc cánh tay tới các đầu ngón tay. Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ còn có thể gây hiện tượng yếu cơ. Ở cột sống cổ, khoảng cách giữa 2 đốt sống không lớn nên đĩa đệm cột sống cổ có thể tích không lớn. Bên cạnh đó, không gian cho các dây thần kinh cũng nhỏ hẹp khiến một khối thoát vị đĩa đệm dù nhỏ đã có thể chèn ép lên dây thần kinh gây đau đáng kể.

Ở cổ, hai vị trí thường bị thoát vị nhất là đĩa đệm C5-C6 (đĩa đệm nằm giữa đốt sống C5-C6) và C6-C7, sau đó là đĩa C4-C5. Đĩa đệm C7-T11 hiếm khi xảy ra thoát vị.

Xem thêm: 
 Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Triệu chứng thoát vị đĩa đệm cột sống cổ

So với thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, thoát vị đĩa đệm cột sống cổ có bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, phong phú hơn, bởi vì ngoài các hội chứng chèn ép rễ thần kinh còn có hội chứng chèn ép tuỷ và hội chứng rối loạn thần kinh thực vật. Nhiều triệu chứng khởi phát âm thầm và tiến triển từ từ trong thời gian dài, khiến bệnh nhân chủ quan không điều trị kịp thời, đến khi ý thức được điều đó thì đã muộn.

Hội chứng chèn ép rễ có biểu hiện lâm sàng là các triệu chứng đau, tê, yếu cơ ở cổ, gáy, vai và cánh tay, bàn tay.

Hội chứng chèn ép tủy thường có các biểu hiện rối loạn vận động, rối loạn cảm giác trong lúc cột sống cổ chỉ đau nhẹ hoặc không đau. Rối loạn vận động là triệu chứng nổi bật, lúc đầu thấy mất khéo léo bàn tay, thay đổi dáng đi, dần dần xuất hiện các biểu hiện liệt ngoại vi hai tay và liệt trung ương hai chân, rối loạn về phản xạ và cơ vòng khiến tiêu tiểu mất chủ động. Rối loạn cảm giác thường biểu hiện tê bì các ngón tay. Thường giảm cảm giác đau và nhiệt.

Hội chứng rối loạn thần kinh thực vật có các biểu hiện lâm sàng là chóng mặt ù tai, mất thăng bằng; mắt mờ từng cơn, đôi khi đau ở phần sau hốc mắt; đỏ mặt đột ngột, cơn hạ huyết áp, vã mồ hôi, tăng nhu động ruột, cơn đau ngực, khó nuốt do chèn ép thực quản.

Ở các bệnh nhân hẹp ống sống cổ bẩm sinh, thoát vị đĩa đệm cột sống cổ mức độ nhẹ cũng có thể gây các triệu chứng lâm sàng nặng hơn. Một đặc điểm khác là thoát vị thường xẩy ra cùng lúc ở nhiều đĩa đệm.

Một số triệu chứng cụ thể trên từng đĩa đệm bị thoát vị:
  • ​+ Đĩa C4-C5: có thể gây yếu và đau phần cơ vai. Thoát vị đĩa C4-C5 thường không gây tê và cảm giác kim châm
  • Đĩa C5-C6: có thể gây yếu ở phần bắp tay, cơ duỗi cổ tay quay dài (phần trên ống tay). Triệu chứng tê và cảm giác kiến bò đi kèm đau có thể lan toả xuống ngón tay cái. Đĩa C5-C6 là vị trí dễ bị thoát vị nhất trong các đĩa đệm cột sống cổ.
  • Đĩa C6-C7: có thể gây yếu cơ tam đầu (phần cơ nằm ở phần sau cánh tay trên, ngay dưới nách). Cảm giác tê và kiến bò đi kèm đau có thể lan tư cơ tam đầu xuống ngón tay giữa. Đây cũng là một trong những đĩa đệm cổ thường bị thoát vị nhất.
  • Đĩa C7-T1: gây yếu phản xạ cầm, nắm. Cảm giác tê, đau, kiến bò lan từ cánh tay xuống ngón út.
Cần lưu ý rằng những triệu chứng trên là những dấu hiệu điển hình cho thoát vị ở từng đĩa đệm cột sống cổ nhưng không phải là tuyệt đối. Một số người có thẻ trải nghiệm những triệu chứng khác.

Xem thêm: Thoát vị đĩa đệm nguy hiểm như thế nào?
               Thoát vị đĩa đệm có thể chữa khỏi được không?

 

Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống cổ

Trong các nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, quá trình thoái hoá và thói quen làm việc, sinh hoạt chiếm vị trí cao nhất. Những người làm việc văn phòng thường hay ngồi sử dụng máy tính nhiều tiếng đồng hồ liên tục với tư thế bất lợi cho cột sống cổ. Lối sống ít thể dục làm cho quá trình thoái hoá diễn ra nhanh hơn.

Phòng ngừa thoát vị

Để phòng ngừa thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, nên tập thể dục đều đặn. Không nên làm việc quá lâu tại bàn giấy, đặc biệt là với máy vi tính, cứ mỗi 30-40 phút nên dừng lại để thực hiện các động tác vận động cột sống cổ, vai và tay. Các động tác tự xoa bóp vùng cổ gáy có tác dụng tốt chống thoái hoá. Giữ ấm vùng cổ vai khi trời lạnh, khi đi xe máy, khi ngủ. Tránh các động tác làm căng cơ cổ như xách vật nặng một bên tay, đeo túi xách. 

Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm cột sống cổ như thế nào?

Trước tiên, bác sỹ khám lâm sàng để xác định tính chất và vị trí đau cùng với kiểm tra các triệu chứng yếu cơ, mất cảm giác (nếu có).Những chẩn đoán lâm sàng sẽ được xác nhận bằng các biện pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang, chụp CT scan hay cộng hưởng từ (MRI).
Phim X-quang có thể cho thấy các gai xương hay sự thu hẹp không gian đĩa đệm khi cột sống thoái hoá nhưng không cho thấy hình ảnh đĩa đệm bị thoát vị và các dây thần kinh cột sống.
Khối thoát vị chèn ép dây thần kinh trên phim MRI
Hình 2: Khối thoát vị chèn ép dây thần kinh trên phim MRI
Phim CT và MRI cho phép thấy được các thành phần cấu trúc cột sống (đốt sống, đĩa đệm, tuỷ sống và các dây thần kinh) do đó có thể chỉ ra đĩa đệm bị thoát vị.
Ngoài ra, có thể 
khám dẫn truyền thần kinh để dò xét các dấu hiệu tổn thương dây thần kinh do thoát vị đĩa đệm.

Điều trị

Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống cổ cũng tương tự điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, bao gồm các phương pháp bảo tồn và can thiệp ngoại khoa. Các phương pháp bảo tồn thông thường là dùng thuốc, xoa bóp, châm cứu, vật lý trị liệu.

Can thiệp ngoại khoa được cân nhắc nếu sau 2 tháng điều trị bảo tồn không có kết quả.


Đa số phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống cổ thường khoét bỏ đĩa đệm. Phẫu thuật cùng lúc hai đĩa đệm trở lên làm mất vững cột sống nên thường phải cố định cột sống bằng nẹp vít.

Kỹ thuật PLDD có hiệu quả cao đối với thoát vị đĩa đệm cột sống cổ

Kỹ thuật giảm áp đĩa đệm cột sống bằng laser qua da (PLDD) có ưu điểm là bảo tồn đĩa đệm và có thể thực hiện trên nhiều đĩa đệm cùng lúc mà không gây mất vững cột sống. Với chỉ định chính xác, hiệu quả của kỹ thuật PLDD đối với thoát vị đĩa đệm cột sống cổ là trên 95%.


























Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét